Câu hỏi I. Phân tích những nguyên tắc cơ bản của lý luận nhận thức Mác-xít?
Nhận thức là gì? Con người có thể nhận thức được thế giới hay không? Các quan điểm triết học khác nhau có những câu trả lời khác nhau đối với những vấn đề này.
Quan niệm về nhận thức của các nhà duy tâm mang tính chất chủ quan, thần bí. Đối lập với các quan điểm trên, chủ nghĩa duy vật thừa nhận khả năng nhận thức của con người và coi nhận thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong đầu óc của con người. Tuy nhiên do hạn chế bởi tính trực quan, siêu hình nên chủ nghĩa duy vật trước Mác đã coi nhận thức là sự phản ánh trực quan, là bản sao chép nguyên xi trạng thái bất động của sự vật. Họ chưa thấy được vai trò của thực tiễn đối với nhận thức. Như vậy có thể nói, tất cả các trào lưu triết học trước triết học Mác- Lênin đều quan niệm sai lầm hoặc phiến diện về nhận thức, những vấn đề về lý luận nhận thức chưa được giải quyết một cách khoa học, đặc biệt chưa thấy được vai trò của thực tiễn đối với nhận thức.
Bằng sự kế thừa những yếu tố hợp lý của các học thuyết đã có, khái quát các thành tựu khoa học, triết học Mác-Lênin đã xây dựng nên học thuyết biện chứng duy vật về nhận thức. Học thuyết này ra đời đã tạo ra một cuộc cách mạng trong lý luận nhận thức vì đã xây dựng được những quan điểm khoa học đúng đắn về bản chất của nhận thức. Học thuyết này ra đời dựa trên các nguyên tắc cơ bản sau:
1. Thừa nhận thế giới vật chất tồn tại khách quan ở bên ngoài con người, độc lập đối với cảm giác, tư duy và ý thức của con người.
2. Thừa nhận khả năng nhận thức được thế giới của con người, coi nhận thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong bộ óc con người, là hoạt động tìm hiểu khách thể (Thế giới khách quan) của chủ thể (Con người). Về nguyên tắc không có cái gì là không thể nhận thức được mà chỉ có cái con người chưa nhận thức được mà thôi.
3. Khẳng định nhận thức không phải là hành động tức thời, đơn giản, máy móc, thụ động mà là một quá trình biện chứng, tích cực, tự giác và sáng tạo. Quá trình phản ánh ấy diễn ra theo trình tự từ chưa biết đến biết, từ biết ít đến biết nhiều, từ hiện tượng đến bản chất, từ chưa hoàn thiện dến hoàn thiện hơn.
4. Xem thực tiễn là cơ sở chủ yếu và trực tiếp nhất của nhận thức, là động lực, mục đích của nhận thức và là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý.
Dựa trên nguyên tắc đó, chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định: nhận thức là quá trình phản ánh biện chứng, tích cực, tự giác và sáng tạo thế giới khách quan vào trong đầu óc con người trên cơ sở thực tiễn.
Câu hỏi II. Thực tiễn là gì ? Phân tích vai trò của thực tiễn đối với quá trình nhận thức? Ý nghĩa phương pháp luận?
Trong lịch sử triết học trước Mác,
các trào lưu đều có quan niệm chưa đúng, chưa đầy đủ về thực tiễn. Chủ nghĩa duy tâm chỉ hiểu thực tiễn như
là hoạt động tinh thần của con người, chứ không xem nó là hoạt động vật chất.
Ngược lại, chủ nghĩa duy vật trước Mác đã hiểu được thực tiễn là hành động vật
chất của con người nhưng lại xem nó không có vai trò gì đối nhận thức của con
người. Triết học Mác - Lênin đánh giá phạm trù thực tiễn là một trong những phạm
trù nền tảng, cơ bản của triết học nói chung và lý luận nhận thức nói riêng.
Quan điểm đó đã tạo nên một bước chuyển biến cách mạng trong triết học. Vậy thực tiễn là gì? Thực tiễn là toàn bộ những hoạt động vật chất có mục đích,
mang tính lịch sử - xã hội của con người nhằm cải biến tự nhiên và xã hội (hiện
thực khách quan).
Khác với hoạt động tư duy, trong hoạt động thực tiễn,
con người sử dụng những công cụ vật chất tác động vào đối tượng vật chất làm biến
đổi chúng theo mục đích của mình. Đây là hoạt động đặc trưng và bản chất
của con người. Nó được thực hiện một cách tất yếu khách quan và không ngừng được
phát triển bởi con người qua các thời kỳ lịch sử. Do vậy, thực tiễn bao giờ
cũng là hoạt động vật chất có mục đích và mang tính lịch sử - xã hội.
Hoạt động thực tiễn có ba hình thức cơ bản: hoạt động
sản xuất vật chất, hoạt động chính trị xã hội, hoạt động thực nghiệm khoa học. Hoạt
động sản xuất vật chất là hoạt động cơ bản, đầu tiên của thực tiễn. Đây là hoạt
động mà con người sử dụng công cụ lao động tác động vào giới tự nhiên để tạo ra
sản phẩm vật chất nhằm duy trì sự tồn tại thiết yếu của mình. Hoạt động chính
trị xã hội là hoạt động của các tổ chức cộng đồng người khác nhau nhằm cải biến
các mối quan hệ xã hội để thúc đẩy xã hội phát triển. Thực nghiệm khoa học là
hoạt động được tiến hành trong đều kiện do con người tạo ra gần giống, giống hoặc
lặp lại những trạng thái của tự nhiên và xã hội nhằm xác định các quy luật vận
động của đối tượng nghiên cứu. Đây là một hình thức đặc biệt của thực
tiễn, nó có vai trò ngày càng tăng trong sự phát triển của xã hội. Giữa các dạng
hoạt động này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, trong đó hoạt động sản xuất vật
chất là cơ bản nhất, đóng vai trò quyết định. Bởi vì nó là hoạt động khách
quan, thường xuyên nhất tạo ra điều kiện cần thiết để con người tồn tại và phát
triển; đồng thời cũng tạo điều kiện để tiến hành các dạng hoạt động khác. Còn
các dạng hoạt động khác nếu tiến bộ thì tạo điều kiện cho hoạt động sản xuất vật
chất được tăng cường, nếu phản tiến bộ thì kìm hãm sự gia tăng của sản xuất vật
chất. Chính sự tác động lẫn nhau giữa các dạng (hình thức) hoạt động làm cho thực
tiễn vận động, phát triển không ngừng và ngày càng có vai trò quan trọng đối với
nhận thức.
Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức ?
Thực tiễn là cơ sở, nguồn gốc của nhận thức : Con người luôn luôn có nhu cầu khách quan là
phải giải thích và cải tạo thế giới, điều đó bắt buộc con người phải tác động
trực tiếp vào các sự vật, hiện tượng bằng hoạt động thực tiễn của mình, làm cho
các sự vật vận động, biến đổi qua đó bộc lộ các thuộc tính, những mối
liên hệ bên trong. Các thuộc tính và mối liên hệ đó được con người ghi nhận
chuyển thành những tài liệu cho nhận thức, giúp cho nhận thức nắm bắt được bản
chất các quy luật phát triển của thế giới. Chẳng hạn, xuất phát từ nhu cầu cần
đo đạc diện tích, đo sức chứa của các bình mà toán học ra đời và phát triển...
Suy cho đến cùng không có một lĩnh vực nào lại không xuất phát từ thực tiễn,
không nhằm vào việc phục vụ hướng dẫn thực tiễn.
Mặt khác, nhờ có hoạt động thực tiễn mà các giác quan con người ngày càng được hoàn thiện; năng lực tư duy lôgíc không ngừng được củng cố và phát triển; các phương tiện nhận thức ngày càng tinh vi, hiện đại, có tác dụng “nối dài” các giác quan của con người trong việc nhận thức thế giới. Chẳng hạn, từ công việc điều hành, tổ chức nền sản xuất... mà đòi hỏi các môn khoa học quản lý ra đời và phát triển.
Mặt khác, nhờ có hoạt động thực tiễn mà các giác quan con người ngày càng được hoàn thiện; năng lực tư duy lôgíc không ngừng được củng cố và phát triển; các phương tiện nhận thức ngày càng tinh vi, hiện đại, có tác dụng “nối dài” các giác quan của con người trong việc nhận thức thế giới. Chẳng hạn, từ công việc điều hành, tổ chức nền sản xuất... mà đòi hỏi các môn khoa học quản lý ra đời và phát triển.
Thực tiễn là mục đích, động lực của nhận thức : Con người nhận thức nhằm không ngừng hoàn
thiện trước hết không phải vì bản thân nhận thức mà là vì thực tiễn, sao cho hoạt
động của mình đạt kết quả cao hơn. Do đó mục đích cuối cùng của nhận thức là thực
tiễn.Thực tiễn là động lực của nhận thức. Chính trong quá trình con người tiến
hành hoạt động thực tiễn sẽ làm xuất hiện những mâu thuẫn giữa đúng và sai, giữa
nhận thức cũ và thực tiễn mới buộc con người phải tìm cách giải quyết mâu thuẫn
đó. Khi mâu thuẫn được giải quyết, nhận thức sẽ phát triển hơn. Thực tiễn tiếp
tục vận động biến đổi và đặt ra cho con người những nhu cầu, nhiệm vụ mới. Do vậy,
mỗi bước phát triển đi lên của thực tiễn trở thành động lực để thúc đẩy nhận thức
của con người phát triển theo.
Thực tiễn là mục đích của nhận thức: Nhằm giải đáp các vấn đề thực tiễn đặt ra và để
chỉ đạo, định hướng hoạt động thực tiễn, những tri thức con người có được phải
được vận dụng vào thực tiễn nhằm chỉ đạo thực tiễn, làm cho hoạt động thực tiễn
có hiệu quả hơn, qua đó cải tạo thế giới. Chẳng hạn, các môn khoa học quản lý
ra đời nhằm giúp các nhà quản lý tìm ra các biện pháp nâng cao năng suất lao động,
nâng cao hiệu quả kinh tế. Do vậy mục đích cuối cùng của nhận thức là nhằm cải
tạo thế giới.
Thực tiễn là tiêu chuẩn để kiểm tra nhận thức: Thông qua hiệu quả của thực tiễn sẽ kiểm tra được
nhận thức của con người là đúng hay sai và đúng sai đến mức độ nào. Tuy nhiên,
những tri thức đã được thực tiễn kiểm nghiệm là đúng cũng chỉ có tính tương đối.
Ý nghĩa phương pháp luận : Trong hoạt động nhận thức- lý luận, chúng ta pahir có quan điểm thực tiễn :
Luôn bám sát gắn bó với thực tiễn : Thực tiễn là tiêu chuẩn để kiểm tra kết quả nhận
thức, kiểm tra chân lý. Bởi vì nhận thức thường diễn ra trong cả quá trình bao
gồm các hình thức trực tiếp và gián tiếp, điều đó không thể tránh khỏi tình trạng
là kết quả nhận thức không phản ánh đầy đủ các thuộc tính của sự vật. Mặt khác,
trong quá trình hình thành kết quả nhận thức thì các sự vật cần nhận thức không
đứng yên mà nằm trong quá trình vận động không ngừng. Trong quá trình đó, nhiều
thuộc tính, nhiều mối quan hệ mới đã bộc lộ mà nhận thức chưa kịp phản ánh. Để
phát hiện mức độ chính xác, đầy đủ của kết quả nhận thức phải dựa vào thực tiễn.
Mọi sự biến đổi của nhận thức suy cho cùng không thể vượt ra ngoài sự kiểm tra
của thực tiễn chịu sự kiểm nghiệm trực tiếp của thực tiễn. Quan điểm này yêu cầu
việc nhận thức phải xuất phát từ thực tiễn, dựa trên cơ sở thực tiễn, đi sâu
vào thực tiễn.
Thường xuyên tổng kết, khái quát từ thực tiễn nâng lên thành lý luận : Qua thực tiễn để bổ sung, điều chỉnh,
sửa chữa, phát triển và hoàn thiện kết quả nhận thức. C. Mác viết: “Vấn đề tìm
hiểu xem tư duy của con người có thể đạt tới chân lý khách quan hay không, hoàn
toàn không phải là vấn đề lý luận mà là một vấn đề thực tiễn. Chính trong thực
tiễn mà con người phải chứng minh chân lý”.
Thực tiễn quyết định nhận thức, vai trò đó đòi hỏi chúng ta phải luôn luôn quán triệt quan điểm mà V.I Lênin đã đưa ra: “Quan điểm về đời sống, về thực tiễn, phải là quan điểm thứ nhất và cơ bản nhất của lý luận nhận thức”. Quan điểm này yêu cầu phải coi trọng công tác tổng kết thực tiễn.
Thực tiễn quyết định nhận thức, vai trò đó đòi hỏi chúng ta phải luôn luôn quán triệt quan điểm mà V.I Lênin đã đưa ra: “Quan điểm về đời sống, về thực tiễn, phải là quan điểm thứ nhất và cơ bản nhất của lý luận nhận thức”. Quan điểm này yêu cầu phải coi trọng công tác tổng kết thực tiễn.
Việc nghiên cứu lý luận phải liên hệ với thực tiễn,
học đi đôi với hành.
Phê phán bệnh giáo điều, bệnh kinh nghiệm trong
hoạt động thực tiễnSản xuất vật chất được tiến hành bằng phương thức nhất định. Phương thức sản xuất là cách thức con người thực hiện quá trình sản xuất ra của cải vật chất ở những giai đoạn lịch sử nhất định của xã hội loài người. Phương thức sản xuất chính là thể thống nhất giữa lực lượng sản xuất ở một trình độ nhất định và quan hệ sản xuất tương ứng.
Mỗi xã hội được đặc trưng bằng một phương thức sản
xuất nhất định. Phương thức sản xuất đóng vai trò quyết định đối với tất cả các
mặt của đời sống xã hội: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Sự thay thế kế tiếp
nhau của các phương thức sản xuất trong lịch sử quyết định sự phát triển của xã
hội loài người từ thấp đến cao.
Trong sản xuất, con người có "quan hệ song trùng": một mặt là quan hệ giữa người với tự nhiên, tức là lực lượng sản xuất; mặt khác là quan hệ giữa người với người, tức là quan hệ sản xuất.
Trong sản xuất, con người có "quan hệ song trùng": một mặt là quan hệ giữa người với tự nhiên, tức là lực lượng sản xuất; mặt khác là quan hệ giữa người với người, tức là quan hệ sản xuất.
Lực lượng sản xuất : Lực lượng sản xuất biểu
hiện mối quan hệ giữa con người với tự nhiên trong quá trình sản xuất. Lực lượng
sản xuất thể hiện năng lực thực tiễn của con người trong quá trình sản xuất ra
của cải vật chất. Lực lượng sản xuất bao gồm người lao động với kỹ năng lao động
của họ và tư liệu sản xuất, trước hết là công cụ lao động. Trong quá trình sản
xuất, sức lao động của con người và tư liệu sản xuất, trước hết là công cụ lao
động, kết hợp với nhau tạo thành lực lượng sản xuất.
Trong các yếu tố của lực lượng sản xuất, "lực
lượng sản xuất hàng đầu của toàn thể nhân loại là công nhân, là người lao động". Chính người lao động là chủ thể của quá trình lao động sản
xuất, với sức mạnh và kỹ năng lao động của mình, sử dụng tư liệu lao động, trước
hết là công cụ lao động, tác động vào đối tượng lao động để sản xuất ra của cải
vật chất. Cùng với quá trình lao động sản xuất, sức mạnh và kỹ năng lao động của
con người ngày càng được tăng lên, đặc biệt là trí tuệ của lao động ngày càng
cao. Ngày nay, với cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, lao động trí tuệ ngày
càng đóng vai trò chính yếu.
Cùng với người lao động, công cụ lao động cũng là
một yếu tố cơ bản của lực lượng sản xuất, đóng vai trò quyết định trong tư liệu
sản xuất. Công cụ lao động do con người sáng tạo ra, là "sức mạnh của tri
thức đã được vật thể hóa", nó "nhân" sức mạnh của con người
trong quá trình lao động sản xuất. Công cụ lao động là yếu tố động nhất của lực
lượng sản xuất. Cùng với quá trình tích lũy kinh nghiệm, với những phát minh và
sáng chế kỹ thuật, công cụ lao động không ngừng được cải tiến và hoàn thiện.
Chính sự cải tiến và hoàn thiện không ngừng công cụ lao động đã làm biến đổi
toàn bộ tư liệu sản xuất. Xét đến cùng, đó là nguyên nhân sâu xa của mọi biến đổi
xã hội. Trình độ phát triển của công cụ lao động là thước đo trình độ chinh phục
tự nhiên của con người, là tiêu chuẩn phân biệt các thời đại kinh tế trong lịch
sử.
Trong sự phát triển của lực lượng sản xuất, khoa học
đóng vai trò ngày càng to lớn. Sự phát triển của khoa học gắn liền với sản xuất
và là động lực mạnh mẽ thúc đẩy sản xuất phát triển. Ngày nay, khoa học đã phát
triển đến mức trở thành nguyên nhân trực tiếp của nhiều biến đổi to lớn trong sản
xuất, trong đời sống và trở thành "lực lượng sản xuất trực tiếp". Những
phát minh khoa học trở thành điểm xuất phát ra đời những ngành sản xuất mới, những
máy móc thiết bị mới, công nghệ mới, nguyên vật liệu mới, năng lượng mới. Sự
thâm nhập ngày càng sâu của khoa học vào sản xuất, trở thành một yếu tố không
thể thiếu được của sản xuất đã làm cho lực lượng sản xuất có bước phát triển nhảy
vọt, tạo thành cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại. Yếu tố trí lực
trong sức lao động đặc trưng cho lao động hiện đại không còn là kinh nghiệm và
thói quen của họ và là tri thức khoa học. Có thể nói: khoa học và công nghệ hiện
đại là đặc trưng cho lực lượng sản xuất hiện đại.
Quan hệ sản xuất : Quan hệ sản xuất là quan hệ
giữa người với người trong quá trình sản xuất (sản xuất và tái sản xuất xã hội). Quan hệ sản xuất gồm
ba mặt: quan hệ về sở hữu đối với tư liệu sản xuất, quan hệ trong tổ chức và quản
lý sản xuất, quan hệ trong phân phối sản phẩm sản xuất ra.
Quan hệ sản xuất do con người tạo ra, nhưng nó hình thành một cách khách quan trong quá trình sản xuất, không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người. C.Mác viết: "Trong sản xuất, người ta không chỉ quan hệ với giới tự nhiên. Người ta không thể sản xuất được nếu không kết hợp với nhau theo một cách nào đó để hoạt động chung và để trao đổi hoạt động với nhau. Muốn sản xuất được, người ta phải có những mối liên hệ và quan hệ nhất định với nhau; và quan hệ của họ với giới tự nhiên, tức là việc sản xuất". Quan hệ sản xuất là hình thức xã hội của sản xuất; giữa ba mặt của quan hệ sản xuất thống nhất với nhau, tạo thành một hệ thống mang tính ổn định tương đối so với sự vận động, phát triển không ngừng của lực lượng sản xuất.
Trong ba mặt của quan hệ sản xuất, quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất là quan hệ xuất phát, quan hệ cơ bản, đặc trưng cho quan hệ sản xuất trong từng xã hội. Quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất quyết định quan hệ về tổ chức quản lý sản xuất, quan hệ phân phối sản phẩm cũng như các quan hệ xã hội khác.
Quan hệ sản xuất do con người tạo ra, nhưng nó hình thành một cách khách quan trong quá trình sản xuất, không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người. C.Mác viết: "Trong sản xuất, người ta không chỉ quan hệ với giới tự nhiên. Người ta không thể sản xuất được nếu không kết hợp với nhau theo một cách nào đó để hoạt động chung và để trao đổi hoạt động với nhau. Muốn sản xuất được, người ta phải có những mối liên hệ và quan hệ nhất định với nhau; và quan hệ của họ với giới tự nhiên, tức là việc sản xuất". Quan hệ sản xuất là hình thức xã hội của sản xuất; giữa ba mặt của quan hệ sản xuất thống nhất với nhau, tạo thành một hệ thống mang tính ổn định tương đối so với sự vận động, phát triển không ngừng của lực lượng sản xuất.
Trong ba mặt của quan hệ sản xuất, quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất là quan hệ xuất phát, quan hệ cơ bản, đặc trưng cho quan hệ sản xuất trong từng xã hội. Quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất quyết định quan hệ về tổ chức quản lý sản xuất, quan hệ phân phối sản phẩm cũng như các quan hệ xã hội khác.
Lịch sử phát triển của nhân loại đã chứng kiến có
hai loại hình sở hữu cơ bản về tư liệu sản xuất: sở hữu tư nhân và sở hữu công
cộng. Sở hữu tư nhân là loại hình sở hữu mà trong đó tư liệu sản xuất tập trung
vào trong tay một số ít người, còn đại đa số không có hoặc có rất ít tư liệu sản
xuất. Do đó, quan hệ giữa người với người trong sản xuất vật chất và trong đời
sống xã hội là quan hệ thống trị và bị trị, bóc lột và bị bóc lột. Sở hữu công
cộng là loại hình sở hữu mà trong đó tư liệu sản xuất thuộc về mọi thành viên của
mỗi cộng đồng. Nhờ đó, quan hệ giữa người với người trong mỗi cộng đồng là quan
hệ bình đẳng, hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau.
Quan hệ tổ chức và quản lý sản xuất trực tiếp tác động đến quá trình sản xuất, đến việc tổ chức, điều khiển quá trình sản xuất. Nó có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm quá trình sản xuất. Quan hệ tổ chức và quản lý sản xuất do quan hệ sở hữu quyết định và nó phải thích ứng với quan hệ sở hữu. Tuy nhiên có trường hợp, quan hệ tổ chức và quản lý không thích ứng với quan hệ sở hữu, làm biến dạng quan hệ sở hữu.
Quan hệ tổ chức và quản lý sản xuất trực tiếp tác động đến quá trình sản xuất, đến việc tổ chức, điều khiển quá trình sản xuất. Nó có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm quá trình sản xuất. Quan hệ tổ chức và quản lý sản xuất do quan hệ sở hữu quyết định và nó phải thích ứng với quan hệ sở hữu. Tuy nhiên có trường hợp, quan hệ tổ chức và quản lý không thích ứng với quan hệ sở hữu, làm biến dạng quan hệ sở hữu.
Quan hệ về phân phối sản phẩm sản xuất ra mặc dù
do quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất và quan hệ tổ chức quản lý sản xuất chi
phối, song nó kích thích trực tiếp đến lợi ích của con người, nên nó tác động đến
thái độ của con người trong lao động sản xuất, và do đó có thể thúc đẩy hoặc
kìm hãm sản xuất phát triển.
Vai trò của sản xuất vật chất và phương thức sản xuất đối với sự tồn tại và
phát triển của xã hội.
Sản xuất vật chất
giữ vai trò quyết định đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội, là hoạt động
nền tảng làm phát sinh, phát triển những mối quan hệ xã hội của con người; nó
là cơ sở của sự hình thành, biến đổi và phát triển của xã hội loài người.
Xuất phát từ nhân
tố “con người hiện thực” C.Mác cho rằng, tiền đề đầu tiên của mọi sự tồn tại của
con người và đó là việc: “con người ta phải có khả năng sống đã rồi mới có thể
làm ra lịch sử”. Muốn vậy con người cần có thức ăn, thức uống, nhà ở, quần áo...
những thứ đó chỉ có thể được tạo ra từ sản xuất vật chất. Như vậy, hành vi lịch
sử đầu tiên của con người là việc sản xuất ra những tư liệu để thỏa mãn những
nhu cầu ấy, đó là hoạt động cơ bản của con người, là cái để phân biệt hoạt động
của con người với con vật. Để tiến hành sản xuất vật chất con người phải có
không chỉ có quan hệ với tự nhiên mà phải có quan hệ với nhau và trên cơ sở những
quan hệ sản xuất này mà phát sinh các quan hệ khác như: chính trị, đạo đức,
pháp luật...Vì vậy, trong quá trình sản xuất vật chất con người không những làm
biến đổi tự nhiên, biến đổi xã hội đồng thời làm biến đổi cả bản thân mình. Do
đó, sản xuất vật chất không ngừng phát triển tất yếu làm cho xã hội không ngừng
phát triển.
Sự phát triển của
sản xuất vật chất quyết định sự biến đổi, phát triển của toàn bộ đời sống xã hội.
Sự vận động, phát triển của xã hội suy cho cùng có nguyên nhân từ sự phát triển
của nền sản xuất xã hội. Do đó, để giải thích và giải quyết các vấn đề của đời
sống xã hội thì phải xuất phát từ thực trạng sản xuất vật chất của xã hội.
Lịch sử phát triển
của xã hội là lịch sử phát triển của các phương thức sản xuất từ thấp đến cao.
Suy cho cùng cái để phân biệt các thời đại kinh tế không phải ở chỗ nó sản xuất
ra cái gì mà là nó được tiến hành bằng cách nào và với công cụ gì. Quan điểm về
vai trò quyết định của phương thức sản xuất đối với trình độ phát triển của sản
xuất và xã hội là cơ sở để giải thích sự phát triển của lịch sử nhân loại, đó
chính là lịch sử phát triển thay thế của phương thức sản xuất.
Sự thay thế và
phát triển của các phương thức sản xuất phản ánh xu hướng tất yếu khách quan của
quá trình phát triển xã hội loài người từ trình độ thấp đến trình độ cao. Sự
thay thế của phương thức sản xuất này bằng phương thức sản xuất khác có thể diễn
ra theo quy luật phát triển tuần tự hoặc nhảy vọt, bỏ qua một phương thức sản
xuất nào đó trong những điều kiện nhất định, hoặc có thể có sự đan xen giữa các
phương thức sản xuất trong những giai đoạn nhất định tạo nên tính phong phú, đa
dạng về con đường phát triển của các dân tộc trong lịch sử.
Nhận thức được vai
trò của sản xuất vật chất đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội. Trên cơ
sở đó trong nhận thức là cơ sở giúp cho chúng ta nhận thức được rằng, mọi hoạt
động thực tiễn và nhận thức phải dựa trên nền tảng sản xuất vật chất.
Sự biến đổi của
phương thức sản xuất quyết định sự biến đổi, phát triển của xã hội do đó để
thúc đẩy xã hội phát triển cần phải thúc đẩy sự phát triển của phương thức sản
xuất. Quá trình vận động, phát triển, thay thế của phương thức sản xuất trong lịch
sử là quá trình phong phú, đa dạng do đó các dân tộc phải tùy thuộc vào điều kiện
lịch sử cụ thể để lựa chọn con đường phát triển riêng của mình, phù hợp với quy
luật vận động khách quan của lịch sử.
Quy luật
về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
Lực lượng
sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt của phương thức sản xuất, chúng tồn tại
không tách rời nhau, tác động qua lại lẫn nhau một cách biện chứng, tạo thành
quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất. Đây là quy luật cơ bản nhất của sự vận động, phát triển xã hội.
Khuynh
hướng chung của sản xuất vật chất là không ngừng phát triển. Sự phát triển đó
xét đến cùng là bắt nguồn từ sự biến đổi và phát triển của lực lượng sản xuất,
trước hết là công cụ lao động.
Sự phát
triển của lực lượng sản xuất được đánh dấu bằng trình độ của lực lượng sản xuất.
Trình độ
lực lượng sản xuất trong từng giai đoạn lịch sử thể hiện trình độ chinh phục
tự nhiên của con người trong giai đoạn lịch sử đó. Trình độ lực lượng sản xuất
biểu hiện ở trình độ của công cụ lao động, trình độ, kinh nghiệm và kỹ năng lao
động của con người, trình độ tổ chức và phân công lao động xã hội, trình độ
ứng dụng khoa học vào sản xuất.
Gắn liền với trình độ của lực lượng sản xuất là tính chất của lực lượng sản xuất. Trong lịch sử xã hội, lực lượng sản xuất đã phát triển từ chỗ có tính chất cá nhân lên tính chất xã hội hóa. Khi sản xuất dựa trên công cụ thủ công, phân công lao động kém phát triển thì lực lượng sản xuất chủ yếu có tính chất cá nhân. Khi sản xuất đạt tới trình độ cơ khí, hiện đại, phân công lao động xã hội phát triển thì lực lượng sản xuất có tính chất xã hội hóa.
Gắn liền với trình độ của lực lượng sản xuất là tính chất của lực lượng sản xuất. Trong lịch sử xã hội, lực lượng sản xuất đã phát triển từ chỗ có tính chất cá nhân lên tính chất xã hội hóa. Khi sản xuất dựa trên công cụ thủ công, phân công lao động kém phát triển thì lực lượng sản xuất chủ yếu có tính chất cá nhân. Khi sản xuất đạt tới trình độ cơ khí, hiện đại, phân công lao động xã hội phát triển thì lực lượng sản xuất có tính chất xã hội hóa.
Sự vận
động, phát triển của lực lượng sản xuất quyết định và làm thay đổi quan hệ sản
xuất cho phù hợp với nó. Khi một phương thức sản xuất mới ra đời, khi đó
quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Sự phù
hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là một
trạng thái mà trong đó quan hệ sản xuất là "hình thức phát triển" của
lực lượng sản xuất. Trong trạng thái đó, tất cả các mặt của quan hệ sản xuất đều
"tạo địa bàn đầy đủ" cho lực lượng sản xuất phát triển. Điều đó có nghĩa là, nó tạo điều kiện sử dụng và kết hợp một cách tối ưu
giữa người lao động với tư liệu sản xuất và do đó lực lượng sản xuất có cơ sở để
phát triển hết khả năng của nó.
Sự phát
triển của lực lượng sản xuất đến một trình độ nhất định làm cho quan hệ sản xuất
từ chỗ phù hợp trở thành không phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất. Khi
đó, quan hệ sản xuất trở thành "xiềng xích" của lực lượng sản xuất,
kìm hãm lực lượng sản xuất phát triển. Yêu cầu khách quan của sự phát triển lực
lượng sản xuất tất yếu dẫn đến thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất
mới phù hợp với trình độ phát triển mới của lực lượng sản xuất để thúc đẩy lực
lượng sản xuất tiếp tục phát triển. Thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản
xuất mới cũng có nghĩa là phương thức sản xuất cũ mất đi, phương thức sản xuất
mới ra đời thay thế. C.Mác đã viết: "Tới một giai đoạn phát triển nào đó của
chúng, các lực lượng sản xuất vật chất của xã hội mâu thuẫn với những quan hệ sản
xuất hiện có... trong đó từ trước đến nay các lực lượng sản xuất vẫn phát triển.
Từ chỗ là những hình thức phát triển của lực lượng sản xuất, những quan hệ ấy
trở thành những xiềng xích của các lực lượng sản xuất. Khi đó bắt đầu thời đại
một cuộc cách mạng xã hội".
Lực lượng
sản xuất quyết định quan hệ sản xuất, nhưng quan hệ sản xuất cũng có tính độc lập
tương đối và tác động trở lại sự phát triển của lực lượng sản xuất. Quan hệ
sản xuất quy định mục đích của sản xuất, tác động đến thái độ của con người
trong lao động sản xuất, đến tổ chức phân công lao động xã hội, đến phát triển
và ứng dụng khoa học và công nghệ, v.v... và do đó tác động đến sự phát triển của
lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất là động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Ngược lại, quan hệ
sản xuất lỗi thời, lạc hậu hoặc "tiên tiến" hơn một cách giả tạo so với
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất sẽ kìm hãm sự phát triển của lực lượng
sản xuất. Khi quan hệ sản xuất kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất,
thì theo quy luật chung, quan hệ sản xuất cũ sẽ được thay thế bằng quan hệ sản
xuất mới phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất để thúc đẩy lực
lượng sản xuất phát triển. Tuy nhiên, việc giải quyết mâu thuẫn giữa lực lượng
sản xuất với quan hệ sản xuất không phải giản đơn. Nó phải thông qua nhận thức
và hoạt động cải tạo xã hội của con người. Trong xã hội có giai cấp phải thông
qua đấu tranh giai cấp, thông qua cách mạng xã hội.
Quy luật
quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là quy
luật phổ biến tác động trong toàn bộ tiến trình lịch sử nhân loại. Sự thay thế,
phát triển của lịch sử nhân loại từ chế độ công xã nguyên thủy, qua chế độ chiếm
hữu nô lệ, chế độ phong kiến, chế độ tư bản chủ nghĩa và đến xã hội cộng sản
tương lai là do sự tác động của hệ thống các quy luật xã hội, trong đó quy luật
quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là quy
luật cơ bản nhất.
Ý nhĩa của quy luật: QHSX là
do LLSX quyết định nhưng nó không thụ động một chiều mà thường xuyên liên tục
tác động ngược trở lại LLSX. Sự tác động trở lại này diễn ra với 2 khuynh hướng
cơ bản là:
Giải
phóng LLSX, thúc đẩy LLSX phát triển nhanh chóng.
Kìm
hãm, cản trở sự phát triển của LLSX cũng rất nặng nề.
- Sở dĩ
QHSX có vai trò quan trọng như vậy trong sự tác động trở lại LLSX bởi lẽ QHSX
quy định về mục đích, về hệ thống tổ chức quản lý, và về cơ cấu lợi ích của
nền sx ấy. Trên cơ sở những quy định như vậy sẽ hình thành một hệ thống các
nhân tố tác động ngược trở lại LLSX, nếu phù hợp thì thúc đẩy, nếu không phù hợp
thì kìm hãm, cản trở.
Liên hệ
sự vận dụng quy luật này trên đất nước ta
- Từ
1975-1985: trong giai đoạn này, khi trình độ của LLSX vẫn còn rất thấp
kém, nhưng chúng ta đã chủ quan, nóng vội, duy ý chí, muốn xây dựng một QHSX mới
đi trước LLSX một bước, với 2 hình thức sở hữu cơ bản là sở hữu quốc doanh và hợp
tác xã, để mở đường cho LLSX phát triển.
- Những
vấn đề sai lầm:
LLSX và
QHSX là thể thống nhất không tách rời, chúng ta lại tách ra cho QHSX đi trước.
LLSX
quyết định QHSX nhưng ta cho QHSX đi trước để mở đường.
QHSX gồm
3 mặt, nhưng trong giai đoạn này chúng ta chỉ chú ý tới mặt sở hữu mà không chú
ý 2 mặt còn lại. (ngay cả sự sở hữu cũng là sở hữu trong hình thức không phải sở
hữu trong nội dung).
Cải tạo
QHSX chính là vì sự phát triển của LLSX mà cụ thể ở đây là năng suất, chất lượng,
hiệu quả nhưng chúng ta lại không chú ý tới điều đó mà chỉ chú ý tới thời gian
và thành tích (bệnh hình thức).
Kết quả
của việc nhận thức và vận dụng quy luật này không đúng như trên đã đẩy đất nước
vào khủng hoảng KT XH trầm trọng, lạm phát phi mã
- Từ
1986-nay (đổi mới):
ĐH Đảng
lần thứ VI đã nêu tư tưởng về việc nhận thức và vận dụng quy luật này đó là:
LLSX sẽ bị cản trở, bị kìm hãm khi mà QHSX lạc hậu, lỗi thời, không theo kịp,
cũng như khi có các yếu tố đi trước thoát xa khỏi trình độ của LLSX.
Trên cơ
sở đó, Đảng ta cũng chỉ ra rằng LLSX trên đất nước ta còn nhiều trình độ khác
nhau, cho nên phải có nhiều hình thức sở hữu tư liệu sx, nhiều hình thức tổ chức
quản lý và nhiều hình thức phân phối sản phẩm tương ứng (sự tồn tại khách quan
của nhiều thành phần kinh tế).
Đến ĐH
Đảng lần thứ IX, nói tắt lại, đó là "kinh tế thị trường định hướng
XHCN", thể hiện sự nhận thức và vận dụng đúng đắn quy luật QHSX phù hợp
trình độ của LLSX trong thời kỳ quá độ ở nước ta.
Trong
thực tế, với sự nhận thức và vận dụng đúng đắn quy luật này, sau 10 năm chúng
ta thoát khỏi khủng hoảng KT XH, chuyển sang giai đoạn mới - đẩy mạnh CN hoá,
hiện đại hoá đất nước - rõ ràng rằng các tiềm năng của LLSX được khơi dậy
- thể hiện rõ rệt nhất trong lĩnh vực nông nghiệp, từ chỗ đói nổi tiếng thế giới
trở thành nước liên tục đứng thứ 2 về xuất khẩu gạo trên thế giới.
Khái niệm
cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
Quan hệ
sản xuất được hình thành một cách khách quan trong quá trình sản xuất tạo thành
quan hệ vật chất của xã hội. Trên cơ sở quan hệ sản xuất hình thành nên các
quan hệ về chính trị và tinh thần của xã hội. Hai mặt đó của đời sống xã hội được
khái quát thành cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của xã hội. C.Mác viết:
"Toàn bộ những quan hệ sản xuất ấy hợp thành cơ cấu kinh tế của xã hội, tức
là cái cơ sở hiện thực trên đó dựng lên một kiến trúc thượng tầng pháp lý và
chính trị và những hình thái ý thức xã hội nhất định tương ứng với cơ sở hiện
thực đó".
Cơ sở hạ tầng: Cơ sở
hạ tầng là toàn bộ những quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu kinh tế của một xã hội
nhất định.
Cơ sở hạ tầng của một xã hội cụ thể bao gồm quan hệ sản xuất thống trị, quan hệ sản xuất tàn dư của xã hội cũ và quan hệ sản xuất mầm mống của xã hội tương lai. Trong đó, quan hệ sản xuất thống trị bao giờ cũng giữ vai trò chủ đạo, chi phối các quan hệ sản xuất khác, nó quy định xu hướng chung của đời sống kinh tế - xã hội. Bởi vậy, cơ sở hạ tầng của một xã hội cụ thể được đặc trưng bởi quan hệ sản xuất thống trị trong xã hội đó. Tuy nhiên, quan hệ sản xuất tàn dư và quan hệ sản xuất mầm mống cũng có vai trò nhất định.
Như vậy, xét trong nội bộ phương thức sản xuất thì quan hệ sản xuất là hình thức phát triển của lực lượng sản xuất, nhưng xét trong tổng thể các quan hệ xã hội thì các quan hệ sản xuất "hợp thành" cơ sở kinh tế của xã hội, tức là cơ sở hiện thực, trên đó hình thành nên kiến trúc thượng tầng tương ứng.
Cơ sở hạ tầng của một xã hội cụ thể bao gồm quan hệ sản xuất thống trị, quan hệ sản xuất tàn dư của xã hội cũ và quan hệ sản xuất mầm mống của xã hội tương lai. Trong đó, quan hệ sản xuất thống trị bao giờ cũng giữ vai trò chủ đạo, chi phối các quan hệ sản xuất khác, nó quy định xu hướng chung của đời sống kinh tế - xã hội. Bởi vậy, cơ sở hạ tầng của một xã hội cụ thể được đặc trưng bởi quan hệ sản xuất thống trị trong xã hội đó. Tuy nhiên, quan hệ sản xuất tàn dư và quan hệ sản xuất mầm mống cũng có vai trò nhất định.
Như vậy, xét trong nội bộ phương thức sản xuất thì quan hệ sản xuất là hình thức phát triển của lực lượng sản xuất, nhưng xét trong tổng thể các quan hệ xã hội thì các quan hệ sản xuất "hợp thành" cơ sở kinh tế của xã hội, tức là cơ sở hiện thực, trên đó hình thành nên kiến trúc thượng tầng tương ứng.
Kiến trúc thượng tầng: Kiến
trúc thượng tầng là toàn bộ những quan điểm chính trị, pháp quyền, triết học, đạo
đức, tôn giáo, nghệ thuật, v.v... cùng với những thiết chế xã hội tương ứng như
nhà nước, đảng phái, giáo hội, các đoàn thể xã hội, v.v... được hình thành trên cơ sở hạ tầng nhất định.
Mỗi yếu
tố của kiến trúc thượng tầng có đặc điểm riêng, có quy luật vận động phát triển
riêng, nhưng chúng liên hệ với nhau, tác động qua lại lẫn nhau và đều hình
thành trên cơ sở hạ tầng. Song, mỗi yếu tố khác nhau có quan hệ khác nhau đối với
cơ sở hạ tầng. Có những yếu tố như chính trị, pháp luật có quan hệ trực tiếp với
cơ sở hạ tầng; còn những yếu tố như triết học, tôn giáo, nghệ thuật chỉ quan hệ
gián tiếp với nó.
Trong
xã hội có giai cấp, kiến trúc thượng tầng mang tính giai cấp. Đó chính là cuộc
đấu tranh về mặt chính trị - tư tưởng của các giai cấp đối kháng, trong đó, đặc
trưng là sự thống trị về mặt chính trị - tư tưởng của giai cấp thống trị.
Trong
kiến trúc thượng tầng của xã hội có giai cấp, nhà nước có vai trò đặc biệt quan
trọng. Nó tiêu biểu cho chế độ chính trị của một xã hội nhất định. Nhờ có nhà nước,
giai cấp thống trị mới thực hiện được sự thống trị của mình về tất cả các mặt của
đời sống xã hội.
Quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến
trúc thượng tầng
Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với
kiến trúc thượng tầng: Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng là
hai mặt của đời sống xã hội, chúng thống nhất biện chứng với nhau, trong đó cơ
sở hạ tầng đóng vai trò quyết định đối với kiến trúc thượng tầng.
Mỗi cơ
sở hạ tầng sẽ hình thành nên một kiến trúc thượng tầng tương ứng với nó. Tính
chất của kiến trúc thượng tầng là do tính chất của cơ sở hạ tầng quyết định. Trong
xã hội có giai cấp, giai cấp nào thống trị về kinh tế thì cũng chiếm địa vị thống
trị về mặt chính trị và đời sống tinh thần của xã hội.
Các mâu thuẫn trong kinh tế, xét đến cùng, quyết định các mâu thuẫn trong lĩnh
vực chính trị tư tưởng; cuộc đấu tranh giai cấp về chính trị tư tưởng là biểu
hiện những đối kháng trong đời sống kinh tế. Tất cả các yếu tố của kiến trúc
thượng tầng như nhà nước, pháp quyền, triết học, tôn giáo, v.v.. đều trực tiếp
hay gián tiếp phụ thuộc vào cơ sở hạ tầng, do cơ sở hạ tầng quyết định. Khi cơ
sở hạ tầng thay đổi thì sớm hay muộn, kiến trúc thượng tầng cũng thay đổi theo.
C.Mác viết: "Cơ sở kinh tế thay đổi thì toàn bộ kiến trúc thượng tầng đồ sộ
cũng bị đảo lộn ít nhiều nhanh chóng".
Quá
trình đó diễn ra không chỉ trong giai đoạn thay đổi từ hình thái kinh tế - xã hội
này sang hình thái kinh tế - xã hội khác, mà còn diễn ra ngay trong bản thân mỗi
hình thái kinh tế - xã hội.
Tuy sự
thay đổi của kiến trúc thượng tầng cũng gắn với sự phát triển của lực lượng sản
xuất, nhưng lực lượng sản xuất không trực tiếp làm thay đổi kiến trúc thượng tầng.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất chỉ trực tiếp làm thay đổi quan hệ sản xuất,
tức trực tiếp làm thay đổi cơ sở hạ tầng và thông qua đó làm thay đổi kiến trúc
thượng tầng. Sự thay đổi cơ sở hạ tầng dẫn đến làm
thay đổi kiến trúc thượng tầng diễn ra rất phức tạp. Trong đó có những yếu tố của
kiến trúc thượng tầng thay đổi nhanh chóng cùng với sự thay đổi cơ sở hạ tầng
như chính trị, pháp luật, v.v.. Trong kiến trúc thượng tầng, có những yếu tố
thay đổi chậm như tôn giáo, nghệ thuật, v.v.. hoặc có những yếu tố vẫn được kế
thừa trong xã hội mới. Trong xã hội có giai cấp, sự thay đổi đó phải thông qua
đấu tranh giai cấp, thông qua cách mạng xã hội.
Tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối
với cơ sở hạ tầng: Tất cả các yếu tố cấu thành kiến trúc thượng
tầng đều có tác động đến cơ sở hạ tầng. Tuy nhiên, mỗi yếu tố khác nhau có vai
trò khác nhau, có cách thức tác động khác nhau. Trong xã hội có giai cấp, nhà
nước là yếu tố có tác động mạnh nhất đối với cơ sở hạ tầng vì đó là bộ máy bạo
lực tập trung của giai cấp thống trị về kinh tế. Các yếu
tố khác của kiến trúc thượng tầng như triết học, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật,
v.v... cũng đều tác động đến cơ sở hạ tầng, nhưng chúng đều bị nhà nước, pháp
luật chi phối.
Trong mỗi
chế độ xã hội, sự tác động của các bộ phận của kiến trúc thượng tầng không phải
bao giờ cũng theo một xu hướng. Chức năng xã hội cơ bản của kiến trúc thượng tầng
thống trị là xây dựng, bảo vệ và phát triển cơ sở hạ tầng đã sinh ra nó, chống
lại mọi nguy cơ làm suy yếu hoặc phá hoại chế độ kinh tế đó. Một giai cấp
chỉ có thể giữ vững được sự thống trị về kinh tế chừng nào xác lập và
củng cố được sự thống trị về chính trị, tư tưởng.
Sự tác
động của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng diễn ra theo hai chiều. Nếu
kiến trúc thượng tầng tác động phù hợp với các quy luật kinh tế khách quan thì
nó là động lực mạnh mẽ thúc đẩy kinh tế phát triển; nếu tác động ngược lại, nó
sẽ kìm hãm phát triển kinh tế, kìm hãm phát triển xã hội.
Tuy kiến
trúc thượng tầng có tác động mạnh mẽ đối với sự phát triển kinh tế, nhưng không
làm thay đổi được tiến trình phát triển khách quan của xã hội. Xét đến cùng,
nhân tố kinh tế đóng vai trò quyết định đối với kiến trúc thượng tầng. Nếu kiến
trúc thượng tầng kìm hãm phát triển kinh tế thì sớm hay muộn, bằng cách này hay
cách khác, kiến trúc thượng tầng cũ sẽ được thay thế bằng kiến trúc thượng tầng
mới tiến bộ để thúc đẩy kinh tế tiếp tục phát triển.
Ý nghĩa nghiên cứu vấn đề này:
DVBCLS không phải chỉ thấy kinh tế quyết định chính trị mà phải thấy sự tác động
trở lại CSHT của KTTT.
Về mặt
nhận thức, giúp ta hiểu được một cách đầy đủ đúng đắn về quá trình phát triển của
lịch sử... Đổi mới hiện nay trước hết nâng cao sức chiến đấu, nâng cao năng lực
chuyên môn của Đảng.
Về mặt
thực tiễn...
Liên hệ: CSHT nước
ta hiện nay là kết cấu kinh tế nhiều thành phần trong đó kinh tế nhà nước đóng
vai trò chủ đạo nên KTTT phải xây dựng, củng cố, đối mới phù hợp.
Phát
triển kinh tế nhiều thành phần không nhất thiết phải đa nguyên chính trị tuy
nhiên yêu cầu khách quan đặt ra là KTTT nước ta phải đổi mới phát triển theo hướng
nâng cao chất lượng hoàn thành chức năng xã hội của mình.
Trước sự
yếu kém của nền hành chính nước ta hiện nay, Chính phủ đã đưa ra mục tiêu“xây dựng
một nền hành chính dân chủ, trong sạch, vững mạnh, chuyên nghiệp, hiện đại hóa,
hoạt động có hiệu quả”. Trong một số năm gần đây, cải cách hành chính (CCHC) đã
được triển khai trên cả 4 nội dung: cải cách thể chế; cải cách tổ chức bộ máy
hành chính công; xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức.
Tuy
nhiên, tốc độ CCHC còn chậm, chưa nhất quán, hiệu quả còn thấp. Nền hành chính
có chuyển biến song vẫn tụt hậu so với tốc độ và yêu cầu cải cách của nền hành
chính hiện đại và hội nhập kinh tế quốc tế. Tình trạng chung là nhiều cán bộ
lãnh đạo và cán bộ công chức ngại thực hiện cơ chế một cửa, do ngại bị bó buộc,
ngại bị rút bớt quân số và lợi ích cục bộ… Mặt khác, trình độ công chức, cán bộ
ở bộ phận tiếp nhận và trả kết quả còn nhiều bất cập, tỷ lệ đạt chuẩn thấp, nhiều
nơi chỉ đạt 20-30%. Trên thực tế, tuy là “một cửa” nhưng vẫn còn nhiều “ổ khóa”
do không ít cán bộ, công chức tiêu cực, nhũng nhiễu tạo ra nên người dân chưa hết
phiền hà. Trong khi đó, sự chỉ đạo thực hiện cải cách lại thiếu kiên quyết và
nhất quán ở các cấp, các ngành; tiền lương mới chỉ đáp ứng được 1/3 nhu cầu đời
sống của cán bộ, công chức. Hội nghị đã tập trung thảo luận các giải pháp đẩy mạnh
CCHC giai đoạn 2, từ 2006-2010.
Ở Việt
Nam, công cuộc đổi mới toàn diện đất nước được bắt đầu từ năm 1986, tính đến
nay đã gần 20 năm. Trong khoảng thời gian đó, đồng thời với việc đổi mới về
kinh tế thì cải cách hành chính cũng được tiến hành. Cuộc cải cách hành chính
được thực hiện từng bước thận trọng và đã thu được nhiều kết quả rất đáng khích
lệ. Cải cách hành chính đang thể hiện rõ vai trò quan trọng của mình trong việc
đẩy nhanh sự phát triển đất nước
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét