ĐỀ CƯƠNG ÔN THI MÔN LỊCH SỬ ĐẢNG
Câu 1: Anh (chị) hãy nêu và phân tích ý nghĩa của con
đường cứu nước giải phóng dân tộc mà lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và Đảng đã nhấn
mạnh: “đây là sự lựa chọn của chính lịch sử, sự lựa chọn đã dứt khoát từ 1930
với sự ra đời của Đảng ta” (văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần 7,nxb Sự
Thật H.1991 trang 109). Liên hệ về con đường cách mạng hiện nay ở nước ta?
1.Hoàn
cảnh lịch sử
a/Thế giới:
- Từ TK
XIX- XX, trên TG xuất hiện những mâu thuẫn mới trong XH TBCN
+ Mâu thuẫn giữa vô sản và tư sản
+ Mâu thuẫn giữa nhân dân các nước
thuộc địa và các nước TB chính quốc
+ Mâu thuẫn giữa các nước TBCN phát
triển trước và các nước TBCN mới phát triển.
=>
các mâu thuẫn này dẫn đến chiến tranh đế quốc
Sang đầu TK XX, những mâu thuẫn này
càng trở nên gay gắt nên đẫn đến CTTG lần 1 (1914-1918)
CMT10 Nga thành công dưới sự lãnh đạo
của Lenin, nó cổ vũ cho ptr gpdt của các nước trên TG
b/ Trong nước:
1/9/1858, TD Pháp xâm lược nước ta.
XHVN chuyển biến từ 01 XHPK trở thành XH thuộc đia nửa PK
Đầu thế kỉ 20, đất nước ta tồn tại 2 mâu thuẫn gay gắt: mâu thuẫn giữa toàn dân tộc ta
vớithực
dân đế quốc xâm lược và mâu thuẫn giữa giai cấp nông dân với tầng lớp địa chủ
phongkiến. Để giải quyết triệt để 2 mâu thuẫn này đòi hỏi phải đấu tranh để
giải phóng toàn dân tộckhỏi bọn đế quốc và giải phóng giai cấp nông dân khỏi
tầng lớp địa chủ phong kiến bóc lột.
* Theo xu hướng đó, rất nhiều phong trào đấu
tranh của nhân dân ta nổ ra theo 2 hướng
- Phong
trào yêu nước hệ tư tưởng PK:
+ Phong trào CầnVương (theo vua chống P) đứng
đầu là Tôn Thất Thuyết
+ Các cuộc khởi nghĩa Ba Đình (Thanh Hóa), Bãi
Sậy (Hưng Yên), Hương Khê (Hà Tĩnh)… với những sĩ phu yêu nước như Phan Đình
Phùng, Tống Duy Tân, Nguyễn Thiện Thuật…
+ Phong trào nông dân Yên Thế ở Bắc Giang do
Hoàng Hoa Thám lãnh đạo kéo dài gần 30 năm.
- Phong
trào đtr theo xu hướng dân chủ tư sản:
+ Phong trào Đông Du của Phan Bội Châu, Tăng
Bạt Hổ đưa học sinh sang học N để chông P
+ Phong trào Duy Tân của Phan Chu Trinh phát
động thanh niên nhân dân VN tự lực tự cường, học các mới làm theo cai mới
Nhưng những phong trào đấu tranh này đều bị
thất bại do chưa có đường lối đúng đắn; mang tính cải lương hoặc cách mạng nửa
vời
2.
Đường lối:
Trước tình hình đó, Nguyễn Ái Quốc đã quyết
chí ra đi tìm đường cứu nước. Người đã tìm ra những vần đề cơ bản và chỉ dẫn
hướng phát triển của sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc từ bản “Sơ thảo lần
thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa” của Lênin sau
gần 10 năm tìm kiếm (1911-1920). Từ đó Nguyễn Ái Quốc tích cực truyền bá chủ
nghĩa MacLenin về VN nhằm chuẩn bị tiền đề về chính trị, tư tưởng và tổ chức
cho sự ra đời của chính đảng tiên phong ở VN.
Trước nhu cầu cấp bách của phong trào CM trong
nước, ngày 06/01/1930 – 7/2/1930, Nguyễn
Ái Quốc đã triệu tập Hội gnhị tại Hương Cảng (Trung Quốc) nhằm hợp nhất các tổ
chức cộng sán lại thành 01 chính đảng duy nhất của VN, lấy tên là ĐCSVN.
3.
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng ta:
Đây là đường lối của CMVN do chính Nguyễn Ái
Quốc soạn thảo gồm 04 văn kiện: Chánh cương vắn tắt của Đảng, Sách lược vắn tắt
của Đảng, Chương trình tóm tắt, Điều lệ
vắn tắt của ĐCSVN
Cương
lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng gồm những nội dung sau
- Mục
tiêu chiến lược của CM: chủ trương
làm cách mạng tư sản dân quyền và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội
cộng sản (giải quyết được 2 mâu thuẫn của dân tộc)
- Nhiệm
vụ của CM: đánh đổ chủ nghĩa thực dân giành độc lập dân tộc; đồng thời lật
đổ chủ nghĩa phong kiến để chia ruộng đất cho dân cày nghèo, thành lập chính
quyền CM (công – nông - binh).
- Lực
lượng CM: lực lượng CM cơ bản là liên minh công – nông (vì cả 02 lực lượng
này cùng chung mục đích là chống P giành độc lập dân tộc) trong đó gcCN là lực
lượng lãnh đạo CM, phải đoàn kết các giai cấp khác, các lực lượng tiến bộ yêu
nước trong XH, “ lôi kéo tiểu tư sản, trí thức, trung nông … đi vào phe giai
cấp vô sản; đối với phú nông, trung, tiểu địa chủ, tư bản An Nam mà chưa rõ
phản CM, thỉ phải lợi dụng họ, ít nhất là làm cho họ đứng trung lập”.
Tranh thủ sự đoàn kết ủng hộ của các dân tộc bị áp bức và gcVSTG
- Phương pháp CM: sử dụng bạo lực CM (là
02 hình thức đấu tranh vũ trang và đấu tranh chính trị) không thể cải lương,
thỏa hiệp
.- Lãnh
đạo CM: giai cấp công nhân là lực lượng lãnh đạo CM thông qua đội tiền phong của mình là Đảng
Cộng Sản VN xuất phát từ 3 lợi ích: dân tộc, giai cấp, nhân dân
- Quan
hệ quốc tế: cách mạng Việt Nam là
1 bộ phận cách mạng thế giới.
Cương lĩnh đã phản ánh quy luật phát triển khách
quan của XHVN phù hợp với xu thế phát
triển của thời đại.
ĐCSVN đã kết hợp đúng đắn giải quyến vấn đề dân tộc và vần đề giai cấp,
kết hợp truyền thống yêu nước của DTVN vơi kinh nghiệm của CMTG, kết hợp chủ
nghĩa yêu nước với CNQTVS, kết hợp yêu cầu của thực tiễn CMVN với tư tưởng tiên
tiến của CM thời đại
Đường lối cứu nước theo con đường “Độc lập dân
tộc gắn liền với CNXH” là một con đường đúng đắn, thể hiện tính tất yếu của
lịch sử phù hợp với quy với nguyện vọng của nhân dân và đối với xã hội Việt
Nam.
Câu 2: Anh
(chị) hãy cho biết sự vận dụng đúng đắn sáng tạo học thuyết Mác-Lênin về Đảng
Cộng Sản; sự phát triển của chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta trong việc thành
lập Đảng CSVN? Liên hệ với việc xây dựng và chỉnh đốn đảng hiện nay và nhiệm vụ
then chốt?
ĐCSVN ra đời là sự vận dụng sáng tạo khoa học
học thuyết chủ nghĩa Mác-Le6nin; là sự phát triển của Chủ tịch HCM và Đảng ta
trong việc thành lập ĐCSVn
Việc truyền bá lý luận giải phóng dân tộc và
tổ chức vận động nhân dân đấu tranh đã dấy lên phong trào dân tộc dân chủ ở
Việt Nam ngày càng mạnh mẽ, đặc biệt là phong trào công nhân. Cuộc đấu tranh
của công nhân xuất hiện ngay từ khi giai cấp công nhân ra đời. Từ năm 1926 đến
năm 1929 phong trào công nhân ngày càng phát triển với sự ra đời và hoạt động
của Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên. Trong những năm 1926-1927 mỗi năm có
hàng chục cuộc bãi công. Trong hai năm 1928-1929 nổ ra hơn 40 cuộc đấu tranh,
tiêu biểu là cuộc bãi công ở nhà máy xi măng Hải Phòng, nhà máy sợ Nam Định, mỏ
than Hồng Gai…Các cuộc đấu tranh đó đã kết hợp những khẩu hiệu kinh tế với
những khẩu hiệu chính trị, vượt ra ngoài phạm vi một nhà máy, đồn điền bước đầu
có sự liên kết nhiều ngành nhiều địa phương. Điều đó chứng tỏ trình độ giác ngộ
của công nhân đã được nâng lên rõ tuy chưa được đều khắp. Phong trào phát triển
mạnh mẽ có sức quy tụ và dẫn đầu phong trào yêu nước nói chung. Đến năm 1929,
phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam đã phát triển mạnh mẽ đòi
hỏi phải có sự lãnh đạo thống nhất của một đảng cách mạng. Yêu cầu khách quan
đó tác động vào các tổ chức tiển cộng sản dẫn đến cuộc đấu tranh nội bộ và sự
phân hóa tích cực trong các tổ chức này, hình thành nên các tổ chức cộng sản ở
Việt Nam.
Phong trào đấu tranh trong nước diễn ra ngày
càng mạnh mẽ yêu cầu cấp thiết thành lập 1 chính Đảng. Ở Bắc kỳ thành lập Đông
Dương Cộng Sản Đảng, ở Nam Kỳ thành lập An Nam Công Sản Đảng và Trung kỳ thành
lập Đông Dương Cộng Sản Liên Đoàn. Chỉ trong vòng 04 tháng ở Việt Nam có 3 tổ
chức cộng sản ra đời, điều đó chứng tỏ xu thế thành lập đảng cộng sản đã trở
thành tất yếu của phong trào dân tộc ở Việt Nam. Phong trào dân tộc dân chủ ở
Việt Nam phát triển mạnh mẽ đòi hỏi phải có 1 đảng lãnh đạo thống nhất. Sự tồn
tại và hoạt động riêng rẽ của ba tổ chức đảng
làm cho lực lượng và sức mạnh của phong trào bị phân tán. Điều đó không
phù hợp với lợi ích của cách mạng và nguyên tác tổ chức của Đảng Cộng Sản. Ngày
3-2-1930 hội nghị hợp nhất 3 tổ chức đảng thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam.
Theo
VI.Le6nin Đảng Cộng Sản ra đời là sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác với phong trào
công nhân.
Đảng
Cộng Sản Việt Nam ra đời theo Hồ Chí Minh còn có yếu tố thứ 3 là phong trào yêu
nước.
Đây
là một quan điểm quan trọng của Hồ Chí Minh về sự hình thành D9CSVN, là sự phát
triển sáng tạo của chủ nghĩa Mác-Le6nin trên cơ sở tổng kết thực tiễn Việt Nam
HCM nhìn rõ vai trò to lớn của CN M-LN đới với
cách mạng VN. Chỉ ra con đường cưú nước, giải phóng các dân tộc thuộc địa,
thiết lập chính quyền nhân dân.
HCM đánh giá cao vai trò lãnh đạo của giai cấp
công nhân. Giai cấp công nhân giữ vai trò lãnh đạo vì vai trò lãnh đạo không
phụ thuộc vào số đông. Đặc điểm của giai cấp công nhân là kiên quyết, triệt để,
tập trung, có tổ chức, có kỷ luật, là giai cấp tiên tiến có điều kiện tiếp nhận
tư tưởng cách mạng nhất, đó là CN M-LN.
HCM
là người công sản đầu tiên của VN là một cán bộ của Quốc tế Cộng Sản, người
sáng lập ĐCSVN.
Chủ
nghĩa M-LN kết hợp với phong trào công nhân và phong trào yêu nước dẫn đến sự
thành lập ĐCS Đông Dương và đầu năm 1930 hay nói cách khách ĐCSVN là sản phẩm
của sự kết hợp chủ nghĩa M-LN với phong trào công nhân và phong trào yêu nước.
Đây chính là quy luật hình thành và phát triển
của ĐCSVN đồng thời là sự bổ sung sáng tạo vào trong kho tàng lý luận của
CN-MLN. Vì sao HCM lại thêm yêu tố phong trào yêu nước? Dưới đây là 04 lý do:
Một
là: Chủ nghĩa yêu nước vốn là giá trị văn hóa truyền thống trường tồn của dân
tộc VN. Phong trào yêu nước VN là phong trào rộng lớn có từ nghìn năm lịch sử,
có trước phong trào công nhân. Nó cuốn hút mọi tầng lớp nhân dân, toàn dân tộc
dứng lên chống kẻ thù.
Hai
là phong trào công nhân kết hợp với phong trào yêu nước vì nó đều có mục tiêu
chung. Phong trào công nhân ngay từ khi mới ra đời đã kết hợp với phong trào
yêu nước. Khác với những người cộng sản phương Tây, HCM là những người công sản
Việt Nam đã đi từ CN yêu nước đến với CN M-LN, từ giác ngộ dân tộc đến giác ngộ
giai cấp.
Ba
là phong trào nông dân kết hợp với phong trào nông dân ngay từ đầu. Hơn 90% dân
số là nông dân, họ là bạn là đồng minh tự nhiên của giai cấp công nhân.
Bốn
là phong trào yêu nước của trí thức VN là nhân tố quan trọng thúc đẩy sực kết
hợp các yếu tố cho sự ra đời của
ĐCSVN. Trí thức là ngòi nổ cho các phong
trào yêu nước.
Quy
luật hình thành ĐCSVN trên cơ sở kết hợp vấn đề dân tộc với giai cấp, có ý
nghĩa quan trọng đới với quá trình hình thành Đảng ở một nước thuộc địa. Đảng
định hướng đúng đắn và khoa học thúc đẩy phong trào cách mạng đi lên theo hướng
CNXH. HCM đã tìm cách truyền bá chủ nghĩa MLN vào trong dân vào phong trào yêu
nước , phong trào công nhân nhằm tập trung đông đảo nhiều tầng lớp tham gia xây
dựng lực lượng vững chắc để chĩa mũi nhọn vào kẻ thù duy nhất là Pháp.
Bác viết: “Không phải người yêu nước nào đều
là cộng sản việc tiếp nhận đường lối của ĐCS là cần thiết để xác định mực tiêu
yêu nước là đúng đắn. Mỗi người cộng sản trước hết phải là một người yêu nước
tiêu biểu, phải truyền bá CNMLN vào trong dân, lãnh đạo công nhân và quần chúng
thực hiện thắng lợi đường lối của Đảng”.
Câu 3: CMT8 –
1945 có phải là “cánh cửa chính trị khép hờ” không hay là khoa học và nghệ
thuật “chớp thời cơ” trong lãnh đạo tổng khởi nghĩa của Đảng ta? Bằng sự hiểu
biết về LSĐ CSVN, anh ( chị )hãy cho biết nhận định nào là đúng hay sai?
Ngày 1-9-1939, chiến tranh TG lần thứ 2 bùng
nổ và nhanh chóng lan rộng đã tác động đến lịch sử của toàn nhân loại. Nó là cơ
hội cho PT CM TG diễn ra mạnh mẽ và thành công, trong đó có PT CM Đông Dương
Pháp mất nước vào tháng 6-1940, làm
cho mọi chính sách của Pháp với Đông Dương hoàn toàn thay đổi. Từ tháng 9-1940,
PX Nhật xâm lược Đông Dương làm biến đổi mau chóng tình hình CM Đông Dương
Trước tình hình đó, TW Đảng đã triệu
tập các HN quan trọng vào tháng 11-1939, tháng 11-1940, tháng 5-1941, các HN đã
nhận định “chiến tranh TG thứ 2 vừa là thách thức, nguy cơ vừa là cơ hội rất
lớn đối với DT VN”. Từ đó, Đảng đã bắt tay chuẩn bị để đón lấy thời cơ và chớp
lấy thời cơ.
* Về mặt chuẩn bị của Đảng ta:
+ từng bước hình thành và
hoàn thiện đường lối CM giải phóng DT. Cụ thể:
@ HN TW 6 khẳng định vấn đề DT là vấn đề cốt
lõi nhất để giải phóng DT, thành lập CP cộng hòa dân chủ, QĐ thành lập MT thống
nhất phản đế Đông Dương thay cho MT dân chủ Đông Dương, sử dụng hình thức và
phương thức đấu tranh bí mật bất hợp pháp.
@ HN TW 7 khẳng định kẻ thù chính của nhân dân
Đông Dương lúc này là ĐQ – PX Pháp – Nhật, QĐ duy trì lực lượng vũ trang Bắc
Sơn, xây dựng căn cứ địa CM, hoãn cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ, QĐ đưa vũ trang vào
chương trình nghị sự của Đảng.
@ HN TW 8 khẳng định cuộc CM Đông Dương trong
giai đoạn hiện nay là 1 cuộc CM giải phóng DT, thành lập MT Việt Minh, tìm ra
con đường khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền mang bản sắc VN (khởi nghĩa
từng phần giảnh thắng lợi từng bước tiến tới giành chính quyền)
+ chuẩn bị lực lượng chính
trị và lực lượng vũ trang. Cụ thể:
@ 19-5-1941 MT Việt
Minh được thành lập
@ 22-12-1940 Đội VN
tuyên truyền giải phóng quân được thành lập
+ chuẩn bị căn cứ địa CM
(thành lập khu giải phóng Cao Bắc Lạng)
+ chuẩn bị lực lượng lãnh đạo
CM (16/8/1945 ĐH quốc dân họp và đã cử ra UB DT giải phóng VN)
+ bên cạnh đó là sự kiện BH
về nước ngày 28-1-1941
* Về khoa học, nghệ thuật chớp thời
cơ:
+ HN TW 6, 7, 8 đã phân tích,
dự báo tình hình (Nhật đã đầu hàng Liên Xô và các nước Đồng minh vô điều kiện,
chính phủ tay sai Trần Trọng Kim hoang mang cực độ, quân đội các nước Đồng minh
chuẩn bị vào Đông Dương tước vũ khí quân Nhật. Do đó, Đảng xác định việc giành
chính quyền được đặt ra như 1 cuộc chạy đua nước rút với quân Đồng minh, sao
cho phải giành chính quyền trước khi Đồng minh vào Đông Dương)
+ thúc đẩy để thời cơ diễn ra
nhanh hơn, cụ thể là việc phát động cao trào kháng Nhật cứu nước, làm cho Nhật
suy yếu, khích lệ tinh thần của nhân dân ta
+ xác định được thời điểm để
giành chính quyền
+ khi thời cơ đến kịp thời
phát động khởi nghĩa giành chính quyền
Sự chuẩn bị của Đảng ta nằm trong khoa
học, nghệ thuật chớp thời cơ vì ta phân tích, dự báo được tình hình nên ta có
sự chuẩn bị. Chỉ cần khi thời cơ đến thì ta có đầy đủ điều kiện để tiến hành
cuộc CM và giành được thắng lợi.
Câu 4: Anh
chị hãy nêu và phân tích những nét đặc thù chủ yếu trong chủ trương, biện pháp
mà chủ tịch HCM và Đảng ta đã thực hiện đưa nước ta ra khỏi thế “ngàn cân treo
sợi tóc” năm 1945-1946? Liên hệ thực tiễn cách mạng hiện nay ở nước ta và những
giải pháp để khắc phục?
Thuận lợi:
- Nhân
dân ta từ thân phận nô lệ trở thành người làm chủ đất nước. Toàn dân tin tưởng
vào sự lãnh đạo của Đảng, quyết tâm xây dựng chế độ mới
- Nhân
dân ta đã được thử thách, có tinh thần sáng tạo, dùng nhiều hình thức đấu
tranh, nhiều giải pháp để giữ vững độc lập tự do
- Chính
quyền nhân dân đã được xây dựng thành hệ thống từ TW đến cơ sở
- Lực
lượng vũ trang nhân dân đều xuất thân từ nhân dân, vì nhân dân, được Đảng chăm
lo và lãnh đạo, từng bước phát triển lớn mạnh
- Đảng
ta từ 1 Đảng hoạt động bí mật trở thành Đảng cầm quyền, có uy tín cao, được
nhân dân tin tưởng, có đường lối và phương pháp lãnh đạo CM đúng đắn
- Sự
phát triển của CNXH, các PT giải phóng DT, dân chủ và hòa bình trên TG sau
chiến tranh TG thứ 2 có tác động cổ vũ cuộc đấu tranh của nhân dân ta, đặc biệt
là uy tín của Liên Xô trên trường quốc tế ngày càng tăng cao.
Khó khăn:
- Về
kinh tế: nền kinh tế của đất nước vốn đã nghèo nàn, lạc hậu, đã bị kiệt quệ do
chính sách vơ vét, bóc lột của thực dân Pháp và sau đó là PX Nhật
+ Công nghiệp lạc hậu, đình đốn,
thương nghiệp ngừng trệ, hàng hóa khan hiếm, tài chính cạn kiệt, kho bạc trống
rỗng, nông nghiệp tiêu điều, hơn 50% ruộng đất ở Bắc Bộ bị bỏ hoang do lũ lụt
và hạn hán, nguy cơ nạn đói mới
+ Nạn đói khủng khiếp trong lịch sử DT
từ cuối năm 1944 đến đầu năm 1945 đã cướp đi sinh mệnh của 2 triệu đồng bào ta
chưa kịp khắc phục thì nạn đói mới đe dọa cuộc sống của nhân dân ta
- Về
XH: trình độ văn hóa của nhân dân thấp kém, 95% số dân không biết chữ. Các tệ
nạn XH, hủ tục và lối sống lạc hậu qua hàng ngàn năm dưới các triều đại PK và
hơn 80 năm dưới chế độ thực dân ĐQ, PX là gánh nặng cho nhà nước CM non trẻ
- Về
chính trị: nạn ngoại xâm và nội phản đe dọa đến sự sống còn của chính quyền CM
+ Trong nước, các thế lực phản động và
tay sai của thực dân Pháp đã ngóc đầu hoạt động chống phá (Đại Việt quốc gia XH
Đảng, Đại Việt quốc dân Đảng, VN phục quốc…), cùng bọn phản động lưu vong ở
nước ngoài về nước chống phá chính quyền CM rất quyết liệt như VN quốc dân
Đảng, VN cách mạng đồng minh hội. CM VN chưa có 1 thời kỳ nào phải đối phó với
nhiều thế lực, đảng phái chính trị phản động trong những năm 1945-1946
+ Từ bên ngoài, với dnah nghĩa quân
Đồng minh vào VN giải giáp quân đội Nhật, ở miền Bắc 20 vạn quân Tưởng Giới
Thạch ồ ạt chiếm đóng các thành phố, thị xã dọc biên giới Việt – Trung. Ở phía
Nam từ vĩ tuyến 16 trở vào, ngày 6-9-1945 quân đội Anh vào SG. Ngày 23-9-1945
được sự hậu thuẫn của quân Anh, thực dân Pháp nổ súng ở SG, bắt đầu cuộc xâm lược
VN lần thứ 2. Cùng lúc đó, trên đất nước ta còn khaon3g 6 vạn quân Nhật đang
chờ được giải giáp. Chưa bao giờ trên đất nước ta trong cùng 1 lúc lại có nhiều
kẻ thù xâm lược như vậy
Trong khi đó, chiến tranh TG lần thứ 2
kết thúc, các nước đồng minh chiến thắng CN PX đã dần thỏa hiệp, phân liệt và
dẫn đến sự thù địch. Mỹ thao túng các nước đồng minh, dung túng và mở đường cho
Pháp trở lại xâm lược VN. Ở trong khu vực, chính quyền Tưởng Giới Thạch là đồng
minh chiến lược của Mỹ. Lào và Campuchia đã bị Pháp quay trở lại chiếm đóng.
Thù trong giặc ngoài cấu kết với nhau
hòng tiêu diệt nhà nước CM non trẻ. Chính quyền CM đang đứng trước 1 tình thế
“ngàn cân treo sợi tóc”
Trước tình hình đó, Đảng đã đề ra 1 số
chủ trương, biện pháp sau:
a. Xây
dựng, củng cố, bảo vệ chính quyền CM và chế độ XH mới:
- 3-9-1945, CP họp phiên đầu tiên đề
ra 6 nhiệm vụ cấp bách: giải quyết nạn đói; nạn dốt; tổng tuyển cử; thựuc hiện
cần, kiệm, liêm, chính; bỏ thuế thân, thuế chợ, thuế đò và cấm hút thuốc phiện;
tự do tín ngưỡng, lương giáo đoàn kết
- Ở TW: Tổ chức tổng tuyển cử trong cả
nước (6-1-1946), thành lập CP liên hiệp kháng chiến (2-3-1946), Quốc hội thông
qua Hiến pháp (9-11-1946)…
- Ở địa phương: Tổ chức bầu HĐND các
cấp và thành lập các UB hành chính chính thức thay cho các UB hành chính lâm
thời trước đây
- Chủ trương mở rộng khối đại đoàn kết
toàn dân trên cơ sở phát triển các đoàn thể cứu quốc trong MT Việt Minh.
b. Khôi
phục kinh tế, xây dựng đời sống mới về văn hóa, giáo dục:
- Nhiều PT diệt giặc đói được phát động
như “hũ gạo tiết kiệm”, “ngày đồng tâm”, “tăng gia sản xuất”; bên cạnh đó CP
còn ra 1 loạt các Sắc lệnh về bãi bỏ thuế thân, Nghị định giảm thuế 20%, Thông
tư về tạm cấp ruộng đất cho dân cày nghèo…
- 8-9-1945, CP ra sắc lệnh thành lập
“Nha bình dân học vụ”, khôi phục hệ thống giáo dục quốc dân trong phạm vi cả
nước. PT “diệt giặc dốt” phát triển mạnh mẽ trên cả nước.
c.
Kháng chiến chống thực dân Pháp ở Nam Bộ:
- Ở miền Nam, 23-9-1945, ngay sau khi
thực dân Pháp nổ súng ở SG tiến hành cuộc xâm lược VN lần thứ 2, HN của Xứ ủy
Nam bộ được triệu tập và ra QĐ phát động nhân dân kháng chiến chống Pháp.
- 25-10-1945, HN cán bộ Đảng Nam Bộ
chủ trương tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, tiếp tục đẩy mạnh cuộc kháng
chiến
- 21-11-1945, HN quân sự của Xứ ủy Nam
Bộ QĐ xây dựng các căn cứ địa kháng chiến lâu dài
- Thực hiện chỉ chị kháng chiến kiến
quốc, 12-1945, UB kháng chiến miền Nam VN được thành lập, chính quyền Cm ở cả
vùng tự do và bị chiếm đều được xây dựng củng cố
d. Đấu
tranh trên MT ngoại giao:
Đảng đã thực hiện thành công chính
sách ngoại giao thêm bạn bớt thù, khoét sâu mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù,
chĩa mũi nhọn vào kẻ thù chính, kéo dài thời gian hòa bình, không bị lôi kéo
vào những cuộc chiến tranh khi chúng ta chưa chuẩn bị
Hoà hoãn với quân Tưởng ở miền Bắc, tập trung
chống Pháp ở miền Nam, tiếp tục đàm phán để giải quyết xung đột Pháp – Việt
(9-1945 đến 2-1946)
Đảng và CT HCM chủ trương: “Hoa – Việt
thân thiện”, với những nhân nhượng về kinh tế, chính trị và những biện pháp
“đau đớn”, ta đã vô hiệu hóa 20 vạn quân Tưởng, đấu tranh kiên quyết với 2 đảng
phản động là Việt Quốc và Việt Cách, giữ vững chính quyền CM
Hòa hoãn với Pháp để đẩy nhanh quân
Tưởng về nước, tranh thủ thời gian, xây dựng thực lực CM (3-1946 đến 12-1946)
Sau hiệp ước Hoa – Pháp, 28-2-1946,
quân Tưởng đồng ý cho quân Pháp ra miền Bắc. 3-3-1946, BTV ra chỉ thị tình hình
và chủ trương
Thực hiện chủ trương hòa với Pháp,
6-3-1946, CT HCM ký với đại diện CP Pháp bản hiệp định sơ bộ với những điều
khoản chủ yếu:VN là 1 quốc gia tự do nằm trong Liên hiệp Pháp, chấp nhận cho
15.000 quân Pháp ra miền Bắc thay thế quân Tưởng. 9-3-1946, TW ra chỉ thị “hòa
để tiến” nêu rõ “chúng ta hòa với Pháp để giành thời gian, bảo toàn thực lực,
giữ vững lập trường, càng mau tiến tới độc lập hoàn toàn”
Sau hiệp định sơ bộ đã diễn ra các
hoạt động ngoại giao: cuộc gặp gỡ giữa HCM với Đô đốc Đắcgiăngliơ trên Vịnh Hạ
Long nagỳ 24-3-1946; tiếp theo là HN trù bị ở Đà Lạt, và sau đó là HN
Phôngtennơblô trên đất Pháp nhưng đều bế tắc. Đang thăm nước Pháp với tư cách
thượng khách, 14-9-1946 CT HCM ký với đại diện CP Pháp bản Tạm ước với thiện
chí tiếp tục nhân nhượng Pháp, cố gắng đàm phán ngoại giao đề giải quyết quan
hệ Việt – Pháp.
Với đường lối, chủ trương, biện pháp
kịp thời, đúng đắn, Đảng ta và CT HCM đã lãnh đạo CM nước ta vượt qua tình thế
“ngàn cân treo sợi tóc” chủ động, chuẩn bị lực lượng cho cuộc kháng chiến
trường kỳ của DT.
Câu 5: Căn
cứ vào đâu mà Đảng ta đề ra đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp và can
thiệp Mỹ? Nhân tố quyết định thắng lợi của cuộc kháng chiến 1945-1954? Liên hệ
với việc thực hiện 2 nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai
đoạn hiện nay?
Trả lời:
4 ý chính
1. Cơ
sở đề ra đường lối kháng chiến chống Pháp:
* Âm
mưu của Pháp:
+ Pháp phát động cuộc chiến tranh ở
Nam bộ ngày 23/9/1945, những phần tử hiếu chiến trong giới cầm quyền Pháp bộc
lộ rõ âm mưu quay lại tái chiếm Đông Dương lần thứ hai
+ Với sức mạnh quân sự và vũ khí vượt
trội, được sự hậu thuẫn của Mỹ và các nước TBCN phương Tây, Pháp hy vọng sẽ
“đánh nhanh, thắng nhanh”.
* Tình
hình trong nước:
- Thuận lợi:
+ Phong trào cách mạng thế giới có
bước phát triển mạnh mẽ. Liên Xô ngày càng khẳng định vị thế chính trị trên thế
giới. Xu thế hòa bình dân tộc, độc lập dân tộc, XHCN đang phát triển. Phong
trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở Châu Á, Châu Phi, Châu Mỹ phát triển.
+ Ta đánh giá đúng thuận lợi và khó
khăn, có những chủ trương, giải pháp đúng đắn để có được 16 tháng hòa bình để
chuẩn bị kháng chiến, xây dựng lực lượng vũ trang, cơ sở kinh tế, chính trị, xã
hội cơ bản được xây dựng, thế và lực của VN đã khác, có lòng tin của nhân dân,
truyền thống yêu nước, có Đảng và Bác Hồ sáng suốt, lãnh đạo cách mạng VN.
+ Chọn vị thế cho chiến khu kháng
chiến lâu dài: Hang Cốc Bó (Cao Bằng): gần dân, gần nước, thuận đường tiến,
tiện đường lui.
- Khó khăn:
+ Chủ nghĩa đế quốc và thực dân Pháp
có dã tâm xâm lược nước ta.
+ VN chưa được 1 nước nào công nhận
+ Kẻ thù có nền kinh tế phát triển và
1 đội quân chính quy.
+ VN vẫn còn khó khăn về kinh tế, quân
sự nghèo nàn, thô sơ
à VN mạnh về thế, yếu về lực. Chính vì thế, VN
phải phát huy sở trường của mình, hạn chế thế mạnh của địch. Địch muốn đánh
nhanh, thắng nhanh, ta sẽ đánh lâu dài, trường kỳ kháng chiến, dựa vào sức mình
là chính.
2. Nội
dung đường lối kháng chiến chống Pháp:
Đường lối kháng chiến được hình thành
ngay từ đầu của cuộc kháng chiến: Chỉ thị kháng chiến kiến quốc (25/11/1945),
Chỉ thị Toàn dân kháng chiến (12/12/1946), Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến
(19/12/1946) và tác phẩm Kháng chiến nhất định thắng lợi của Tổng bí thư Trường
Chinh, gồm những nội dung cơ bản:
+ Mục tiêu kháng chiến: đánh đuổi thực
dân Pháp, bọn phản động Pháp, giành độc lập thống nhất Tổ quốc.
+ Nhiệm vụ cơ bản: vừa kháng chiến,
vừa kiến quốc. Hai nhiệm vụ bổ sung, hỗ trợ cho nhau đưa sự nghiệp cách mạng
đến thắng lợi.
+ Lực lượng kháng chiến: huy động sức
mạng toàn dân tộc, các tầng lớp nhân dân tập hợp trong Mặt trận Việt Minh.
+ Phương châm kháng chiến: toàn dân,
toàn diện, kháng chiến trường kỳ, dựa vào sức mình là chính (tự lực cánh sinh).
+ Lãnh đạo cuộc kháng chiến: Đảng,
Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh và các đoàn thể chính trị - xã hội.
à Thực tiễn đã chứng minh đường lối kháng chiến
là đúng đắn, là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ.
Phân tích:
+ Lý luận: dựa trên nền tảng chủ nghĩa
Mác – Lê nin.
+ Quy luật và xu thế: kháng chiến toàn
dân, đúng quy luật huy động sức mạnh toàn dân tộc, chiến tranh chính nghĩa nhất
định thắng lợi.
+ Tổng kết thực tiễn: kinh nghiệm thực
tiễn chống giặc ngoại xâm của cha ông ta (trường kỳ kháng chiến), lấy ít địch
nhiều, lấy nhân nghĩa thắng hung tàn.
+ Đường lối kháng chiến phù hợp với
lợi ích và nguyện vọng của nhân dân.
+ Tiếp thu những kinh nghiệm, tinh hoa
của thế giới: Liên Xô chiến thắng phát xít Đức, khoa học - nghệ thuật chiến
tranh
+ Kháng chiến toàn diện: tận dụng các
nguồn lực về chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa, tư tưởng ...
3. Quá
trình tổ chức, thực hiện đường lối kháng chiến chống Pháp, bổ sung, phát triển,
hoàn thiện đường lối kháng chiến:
Thực dân Pháp thay đổi chiến lược bằng
kế hoạch: đưa cuộc chiến tranh Đông Dương vào khuôn khổ chiến lược toàn cầu Mỹ,
thực hiện chiến lược “lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt trị
người Việt”, lập chính phủ bù nhìn, tăng viện trợ, thay tướng lĩnh, xây dựng
lực lượng cơ động, làm chủ chiến trường chính Bắc Bộ.
Hội nghị trung ương mở rộng từ
15-17/1/1948 đề ra chủ trương: “Phát triển chiến tranh du kích khắp nơi, nhất là
trong vùng địch kiểm soát, đồng thời tùy theo tình thế tập trung đánh vận động
tiêu diệt địch”:
+ Mặt trận quân sự: mở chiến dịch Biên
giới (1950), chiến dịch thắng lợi, căn cứ địa Việt Bắc được mở rộng và nối liền
với các nước trong hệ thống XHCN trên thế giới.
+ Mặt trận chính trị: bộ máy nhà nước
từng bước được kiện toàn, chính phủ kháng chiến được cải tổ, mặt trận đoàn kết
dân tộc không ngừng được mở rộng và củng cố.
+ Mặt trận kinh tế: các khu vực nông
nghiệp, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp hoạt động mạnh mẽ. Chính phủ thực
hiện xóa nợ, giảm tô, giảm tức cho nông dân, tịch thu ruộng đất chia lại cho
dân cày nghèo, khai hoang, phục hóa, làm thủy lợi, tăng gia sản xuất... tạo nên
sức mạnh và sự phát triển mới của nền kinh tế kháng chiến.
+ Lĩnh vực văn hóa, giáo dục, y tế:
đại hội văn hóa toàn quốc lần 2 được triệu tập (7/1948), các hoạt động văn hóa,
văn nghệ được đẩy mạnh và phát huy. Xóa nạn mù chữ tiếp tục được đẩy mạnh,
thành lập các trường, lớp ở các cấp học phổ thông.
Đường lối kháng chiến được bổ sung,
phát triển, hoàn thiện từ Đại hội Đảng lần thứ II (11-19/2/1951). Nghị quyết
Đại hội xác định một số nội dung cơ bản sau:
+ Cách mạng Việt Nam là cuộc cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân
+ Lực lượng cách mạng Việt Nam: công
nhân, nông dân, tiểu tư sản thành thị, tiểu tư sản trí thức và tư sản dân tộc,
địa chủ yêu nước và tiến bộ.
+ Nhiệm vụ trước mắt: đánh đuổi thực
dân Pháp xâm lược và các thế lực phong kiến tay sai, giành độc lập dân tộc,
giành ruộng đất cho nông dân, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân,
tiến lên làm cách mạng XHCN.
+ Đảng cộng sản Đông Dương được tách
ra thành lập 3 đảng của 3 nước Đông Dương: Việt Nam lấy tên là Đảng Lao động
Việt Nam hoạt động công khai, Campuchia và Lào sẽ thành lập Đảng riêng của mỗi
nước.
+ Đại hội bầu BCH TW gồm 29 đồng chí
do Chủ tịch Hồ Chí Minh làm Chủ tịch Đảng, đồng chí Trường Chinh là Tổng Bí
thư.
+ Thông qua Chính cương của Đảng với
15 chính sách cơ bản để động viên, tập hợp sức mạnh toàn dân tộc.
à Đại hội lần thứ II của Đảng đã đánh dấu bước
trưởng thành lớn trong tư duy lý luận của Đảng về cách mạng, chiến tranh cách
mạng, bổ sung, phát triển và hoàn thiện đường lối kháng chiến, đường lối cách
mạng, tiếp tục lãnh đạo cuộc kháng chiến chống Pháp đi đến thắng lợi.
4. Liên
hệ thực tiễn:
Trong văn kiện Đại hội lần thứ XI của
Đảng đã trình bày, cách mạng VN ngày nay thực hiện cùng lúc 2 nhiệm vụ chiến
lược:
+ Xây dựng, phát triển đất nước, đổi
mới, mở cửa, hội nhập, phát triển toàn diện.
+ Bảo vệ nền an ninh, quốc phòng, chủ
quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ.
(Xem trong văn kiện Đại hội lần thứ XI
của Đảng )
Câu 6: Anh
(chị) hãy cho biết quá trình hình thành phát triển và hoàn thiện đường lối CM
miền Nam? Bước ngọăt và những thắng lợi của cách mạng miền Nam (1954 – 1975)
trong việc giải phóng miền Nam thống nhất Tổ quốc?
Đáp:
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ (tháng
5/1954), đất nước ta tạm thời bị chia cắt (tại vĩ tuyến 17) thành 02 miền và có
02 chế độ chính trị khác nhau:
+ Miền
Bắc: hoàn toàn giải phóng và đi theo con đường CM XHCN
+ Miền
Nam: đế quốc Mỹ tìm mọi cách thế chỗ của Pháp ở miền Nam VN, với âm mưu từng
buớc biến miền Nam thành căn cứ quân sự và thuộc địa kiểu mới ở Đông Nam Á để
tấn công và thôn tính miền Bắc.
Điều này đòi hỏi Đảng ta phải đề ra
đường lối CM đúng đắn, phù hợp với tình hình mới. Quá trình hình thành phát
triển và hoàn thiện đường lối CM miền Nam từ 1954 – 1975 được chia thành 04
giai đoạn sau:
1/ Giai
đoạn 1954 – 1960:
Giai
đoạn này, đế quốc Mỹ thực hiện “Chiến tranh đơn phương”, Mỹ thực hiện thanh
trừng nội bộ, xây dựng lực lượng cảnh sát, quân đội, tiến hành các chiến dịch
“tố cộng”, “diệt cộng”, ly khai, đàn áp dã man các phong trào yêu nước, tiến bộ
ở miền Nam. Tình hình CM miền Nam rơi vào thời điểm vô cùng khó khăn.
Trước tình
hình đó, Đảng ta đã từng bước đề ra đường lối CM :
-
Tại Hội
nghị lần 6 BCH TW khóa II (từ 15/7 đến 17/7/1954) Đảng nhận định “Hiện nay đế
quốc Mỹ ….đang trở thành kẻ thù chính và trực tiếp của nhân dân Đông Dương, cho
nên mọi việc của ta đều nhằm chống đế quốc Mỹ”.
-
Ngày
6/9/1954, Bộ chính trị ra Chỉ thị về tình hình mới và nhiệm vụ công tác mới của
miền Nam
·
Đấu
tranh đòi thi hành hiệp định Giơnevơ;
·
Chuyển
hướng công tác.. vừa che dấu lực lượng, vừa lợi dụng..
·
Đoàn
kết, tập hợp… đòi tự do, dân chủ… tổng tuyển cử
à CM
miền Nam chuyển từ đấu tranh vũ trang quân sự sang đấu tranh chính trị
-
Tháng
6/1954, Bí thư xứ ủy Nam bộ (đ/c Lê Duẩn) dự thảo đề cương CMVN ở miền Nam làm
sáng tỏ một số vấn đề về lý luận và thực tiễn CM miền Nam.
-
Hội
nghị lần 10 BCH TW khóa II (tháng 09/1956) đề ra 4 công tác lớn:
·
Củng cố
miền Bắc làm cơ sở cho đấu trang thống nhất nứơc nhà
·
Giữ
vững và phát triển CM miền Nam
·
Giữ
vững và phát triển quan hệ Bắc – Nam
·
Đấu
tranh ngoại giao đòi thi hành hiệp định Giơnevơ.
-
Hội
nghị lần 13 BCH TW khóa II (tháng 12/1957), Đảng ta nhận định “… chấp hành 2
chiến lược CM: CM dân tộc dân chủ nhân dân và CM XHCN”
-
Đến Hội
nghị lần 15 BCH TW khóa II (tháng 1/1959), đường lối CM miền Nam đã được hoàn
chỉnh, phản ánh đúng nhu cầu của lịch sử, đáp ứng nguyện vọng bức thiết của
nhân dân miền Nam, giải quyết kịp thời yêu cầu phát triển của CM miền Nam. BCH
TW Đảng ra NQ về CM miền Nam, theo đó:
·
Xác
định nhiệm vụ trước mắt: đoàn kết toàn dân… chống đế quốc Mỹ… đánh đổ… Ngô Đình
Diệm tay sai, thực hiện độc lập dân tộc, thống nhất nước nhà.
·
Con
đường phát triển cơ bản của CM miền Nam: khởi nghĩa giành chính quyền về tay
nhân dân
·
Thành
lập Mặt trận thống nhất riêng cho miền Nam, có cương lĩnh phù hợp…
-
Đại hội
Đảng lần III (9/1960) đã bổ sung và hoàn
chỉnh đường lối, phương pháp CM miền Nam. Theo đó, Đảng xác định:
+ Tính
chất XH miền Nam: …xã hội miền Nam tồn tại 02 mâu thuẫn
·
Mâu
thuẫn giữa nhân dân miền Nam với đế quốc Mỹ xâm lược (đây là mâu thuẫn chủ
yếu).
·
Mâu
thuẫn giữa nông dân miền Nam với giai cấp địa chủ phong kiến.
+ Lực
lượng tham gia CM ở miền Nam: giai cấp công nhân, nông dân, tầng lớp tiểu tư
sản, tư sản dân tộc và những nhân sĩ yêu nước…
+ Nhiệm
vụ cơ bản là giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị đế quốc và phong kiến,…
hoàn thành CM dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam…
+ Nhiệm
vụ trước mắt:…
+ Con
đường phát triển cơ bản của CM miền Nam: …đấu tranh chính trị của quần chúng là
chủ yếu kết hợp với đấu tranh vũ trang…
(xem thêm nội dung chi tiết tại câu 24 – tài
liệu hỏi đáp)
-
Với
đường lối CM miền Nam được đề ra tại Hội nghị lần 15 và Đại hội Đảng lần III,
các cuộc khởi nghĩa đã diễn ra liên tục: ngày 17/1/1960, nhân dân các xã huyện
Mỏ Cày tỉnh Bến Tre đồng loạt nổi dậy… đập tan bộ máy chính quyền Mỹ - ngụy ở
cơ sở, phong trào “đồng khởi” lan rộng các tỉnh Tây Ninh, Mỹ Tho, Tân An, Trà
Vinh,… đến cuối năm 1960, phong trào “đồng khởi” về cơ bản làm tan rã bộ máy
chính quyền của địch ở cơ sở nông thôn toàn miền Nam.
Phong
trào “đồng khởi” đã giáng một đòn bất ngờ vào chế độ Mỹ Diệm ở miền Nam, đánh
bại âm mưu “chiến tranh đơn phương”, đế quốc Mỹ ở vào tình thế lúng túng buộc
phải thay đổi chiến lược đối phó với CM miền Nam.
Thắng
lợi của phong trào “đồng khởi” đã tạo bước ngoặt chuyển CM miền Nam từ thế giữ
gìn lực lượng sang thế tiến công, chuyển sang giai đọan mới.
2/ Giai
đoạn 1961 – 1965:
Giai đoạn này, đế quốc Mỹ thực hiện
kiểu chiến tranh “chiến tranh đặc biệt” với đặc điểm là dùng quân đội tay sai
làm công cụ chiến tranh, với mục tiêu là càn quét, lập “ấp chiến lược”, bình
định miền Nam trong vòng 18 tháng bằng kế hoạch Xtalây-Taylo.
-
Tháng
1-1961 Bộ chính trị chủ trương “chuyển từ khởi nghĩa sang chiến tranh cách
mạng, từng bước đưa đấu tranh vũ trang lên cùng đấu tranh chính trị”.
-
Tháng
10/1961, TW cục miền Nam được thành lập để trực tiếp chỉ đạo CM miền Nam, theo
đó:
·
Đẩy
mạnh xây dựng lực lượng cả quân sự, lẫn chính trị trên cả ba vùng chiến lược.
·
Phương
châm “hai chân, ba mũi, ba vùng”
·
Nguyên
tắc “ Đảng bám dân, dân bám đất, du kích bám địch”
Kết
quả: nhiều phong trào đấu tranh diễn ra liên tục, sôi nổi khắp miền Nam, đánh
bại cuộc càn quét của Mỹ - ngụy tại Ấp Bắc (Mỹ Tho) (2/1/1963),… à ngụy quyền Sài Gòn khủng hoảng trầm trọng,
liên tục đảo chính lật đổ lẫn nhau, đứng trước nguy cơ sụp đổ
-
Tháng
9/1964 Bộ Chính trị cử Đại tướng Nguyễn
Chí Thanh và một số tướng lĩnh cao cấp tăng cường chỉ đạo cho CM miền Nam
Đông
Xuân 1964-1965, các chiến lược An Lão (Bình Định), Bình Giã (Bà Rịa), Ba Giai
(Quãng Ngãi), Đồng Xoài (Phước Long) liên tiếp diễn ra và giành thắng lợi đã
làm phá sản chiến lược “chiến tranh đặc biệt”.
Thắng lợi chiến lược “chiến tranh đặc
biệt” của đế quốc Mỹ đã tạo ra bước ngoặt mới, đó là CM miền Nam vừa giữa được
quyền chủ động, tạo thế trận mới cho CM vừa đẩy Mỹ và ngụy quyền tay sai rơi
vào thế bị động chiến lược trên toàn chiến trường miền Nam.
3/ Giai
đoạn 1965 – 1968:
Giai đoạn này, đế quốc Mỹ thực hiện
kiểu chiến tranh “chiến tranh cục bộ” trong chiến lược “phản ứng linh hoạt” của
Mỹ, với đặc điểm là có mặt trực tiếp quân Mỹ trên chiến trường, Mỹ dự định
trong 18 tháng sử dụng sức mạnh quân sự để bình định miền Nam, có đến 54 vạn
quân Mỹ và 7,2 vạn chư hầu vào miền Nam VN và tăng cường chiến tranh phá hoại
miền Bắc.
-
Tại hội
nghị lần thứ 11 BCH TW khóa III nêu rõ “.. tranh thủ thời cơ, tập trung lực
lượng… giành thắng lợi quyết định ở miền Nam… sẵn sàng đối phó và quyết
thắng..”
à các
trận chiến thắng Núi Thành (26/5/1965), Vạn Tường (8/1965), Plâyme (11/1965)
-
Tại hội
nghị lần thứ 12 BCH TW khóa III nhận định “…lực lượng so sánh giữa ta và địch
vẫn không thay đổi lớn… giữ vững và phát triển thế chiến lược tiến công” à quân và dân miền Nam đã làm thất bại 2 cuộc
phản công chiến lược mùa khô 1965-1966 và 1966-1967 của Mỹ - ngụy, 175.000 quân
Mỹ - ngụy và chư hầu bị loại khỏi vòng chiến đấu à CM miền Nam tạo được thế chiến lược mới.
-
Hội
nghị lần thứ 13 BCH TW khóa III quyết định mở mặt trận ngoại giao nhằm tranh
thủ sự ủng hộ của quốc tế.
-
Hội
nghị lần thứ 14 BCH TW khóa III ban hành NQ “…tổng công kích và tổng khởi
nghĩa, giành quyết định thắng lợi cho sự nghiệp chống Mỹ cứu nước”
à cuộc
tổng tiến công và nổi dậy Mùa Xuân 1968 của quân và dân tà đã làm tan rã 15 vạn
quân địch (trong đó có 4 vạn quân Mỹ), 600 ấp chiến lược, giải phóng thêm 100
xã với 1,6 triệu dân
Cuộc tổng tiến công và nổi dậy Mùa
Xuân 1968 là một đòn chiến lược đánh vào tận hang ổ kẻ thù, làm phá sản chiến
lược “chiến tranh cục bộ” của đế quốc Mỹ, làm đảo lộn thế chiến lược của địch,
làm lung lay ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, buộc chúng phải xuống thang chiến
tranh và ngồi đàm phán với VN tại Hội nghị Pari.
4/ Giai
đoạn 1969 – 1975:
Sau thất bại của chiến lược “chiến
tranh cục bộ”, đế quốc Mỹ có sự thay đổi lớn về người cầm đầu chính quyền,
R.Nichxơn lên làm tổng thống. Chúng vạch ra kế hoạch chiến tranh mới tại VN là
“VN hóa chiến tranh” nhằm mục tiêu mở rộng, quốc tế hóa cuộc chiến tranh và
dùng chính sách thâm độc “dùng người Việt đánh người Việt”.
-
Ngày
2/9/1969, chủ tịch HCM qua đời, cả nước quyết tâm thực hiện Di chúc của Người
là đánh thắng giặc Mỹ, thống nhất đất nước.
-
Hội
nghị lần thứ 18 BCH TW khóa III (tháng 1/1970) đề ra nhiệm vụ trước mắt “đẩy
mạnh cuộc kháng chiến trên tất cả các mặt, vừa tấn công, vừa xây dựng lực
lượng…”
-
Tháng
6/1970, Bộ chính trị ra Nghị quyết về tình hình mới trên bán đảo Đông Dương và
nhiệm vụ mới, có nêu “huy động sức mạnh cả nước tiến hành tiến công và phản
công đánh Mỹ và tay sai trên toàn Đông Dương”.
à kết
quả: thắng lợi cuộc hành quân của 10 vạn quân Mỹ-ngụy sang Campuchia; thắng
Chiến dịch đường 9 – Nam Lào; thắng chiến dịch “Toàn thắng 1/71” của Mỹ-ngụy
vào đông bắc Campuchia; đánh vào ngã ba biên giới ở Tây Bắc Kon Tum à tạo tiền đề cho cuộc kháng chiến chống Mỹ đi
vào giai đoạn mới.
-
Đầu năm
1972, Bộ chính trị và Thường vụ quân ủy TW thông qua kế hoạch cuộc tiến công
Xuân – Hè 1972 trên toàn miền Nam à quân và dân đồng loạt tiến công địch ở Bình
Trị Thiên, Tây Nguyên và Đông Nam bộ và giành được thắng lợi lớn (cùng với
chiến thắng của nhân dân miền Bắc trong cuộc chiến chống chiến tranh phá hoại
lần 2 của Mỹ).
à buộc
Mỹ trở lại bàn đàm phán để ký kết Hiệp định Pari “Hiệp định về chấm dứt chiến
tranh, lập lại hòa bình ở VN”
à mở ra
một cơ hội lớn cho cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta tiến lên
giành thắng lợi hoàn toàn.
Tuy nhiên, chính quyền tay sai Sài Gòn
ngang nhiên xé bỏ Hiệp định Pari, thực hiện nhiều hành động chiến tranh trong
vùng tạm bị chiếm và tiến hành lấn chiếm vùng giải phóng.
-
Hội
nghị lần thứ 21 BCH TW khóa III (tháng 7/1973) ra NQ khẳng định:
·
Con
đường của CM miền Nam: là con đường bạo lực CM… phải nắm vững thời cơ, giữa
vững đường lối chiến lược tiến công…”
-
Ngày
30/9/1974 đến 8/10/1974, Bộ chính trị họp bàn về chủ trương giải phóng miền
Nam, phê chuẩn kế hoạch 2 năm và kế hoạch tác chiến năm 1975.
à cuộc
tổng tiến công và nổi dậy với chiến dịch Tây Nguyên (10/3/1975) thắng lợi, sau
đó tấn công xuống các tỉnh ven biển miền Trung.
-
18/3/1975,
Bộ Chính trị quyết tâm chuyển cuộc tiến công chiến lược kế hoạch 2 năm
(1975-1976) sang hoàn thành ngay trong năm 1975.
à chiến
dịch Huế - Đà Nẵng (21/3/1975) bắt đầu
-
25/3/1975,
Bộ chính trị bổ sung quyết tâm: giải phóng miền Nam trước mùa mưa.
à giải
phóng Huế và Đà Nẵng à chiến
dịch lịch sử HCM giải phóng Sài Gòn – Gia Định thắng lợi vào ngày 30/4/1975
đánh dấu cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc ta thắng lợi hoàn
toàn.
Câu 7: Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ IV (12/1976) khẳng định “không thể nào có thắng lợi
của sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ cứu nước nếu không có miền Bắc XHCN…” Bằng
kiến thức Lịch sử Đảng hãy phân tích và chứng minh làm rõ khẳng định trên. Liên
hệ và vận dụng những bài học kinh nghiệm của thời kỳ này trong giai đoạn cách
mạng hiện nay.
v Hoàn cảnh lịch sử:
-
Sau
chiến thắng Điện Biên Phủ (7/5/1954), đất nước ta bị chia cắt làm 2 miền với 2
nhiệm vụ chiến lược: miền Bắc tiến lên cách mạng XHCN, miền Nam tiến lên cách
mạng Dân tộc Dân chủ Nhân dân giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
-
Từ năm
1954 – 1964, miền Bắc đã thực hiện một số biện pháp khôi phục kinh tế:
ü Hoàn thành cải cách ruộng đất.
ü Cải tạo XHCN.
-
Miền
Bắc là hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn miền Nam, vừa trực tiếp chiến đấu chống
lại hai cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân của đế quốc Mỹ.
v Vai trò của miền Bắc đối với CM chung của cả
nước (1954 – 1975):
-
Tại Đại
hội III của Đảng (9/1960) đã đề ra nhiệm vụ và phương hướng của Kế hoạch 5 năm
lần thứ nhất (1961 – 1965) với các nhiệm vụ cơ bản:
ü Ra sức phát triển công nghiệp và nông nghiệp,
thực hiện một bước việc ưu tiên phát triển công nghiệp nặng; đồng thời ra sức
phát triển nông nghiệp toàn diện, phát triển công nghiệp thực phẩm và công
nghiệp nhẹ, phát triển giao thông vận tải, tăng cường thương nghiệp quốc doanh
và thương nghiệp hợp tác xã, chuẩn bị cơ sở để tiến lên biến nước ta thành một
nước công nghiệp và nông nghiệp XHCN.
ü Hoàn thành công cuộc cải tạo XHCN đối với nông
nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp nhỏ và công thương nghiệp tư bản tư
doanh, củng cố và tăng cường thành phần kinh tế quốc doanh, tăng cường mối quan
hệ giữa sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể, mở rộng quan hệ sản xuất XHCN trong
toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
ü Nâng cao trình độ văn hóa của nhân dân, đẩy
mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; xúc tiến công tác khoa học và kỹ
thuật; xúc tiến thăm dò tài nguyên tự nhiên và tiến hành điều tra cơ bản, nhằm
phục vụ nhu cầu phát triển kinh tế và văn hóa XHCN.
ü Cải thiện thêm một bước đời sống vật chất và
văn hóa của nhân dân lao động, làm cho nhân dân ta được ăn no, mặc ấm, tăng
thêm sức khỏe, có thêm nhà ở và được học tập, mở mang sự nghiệp phúc lợi công
cộng, xây dựng đời sống mới ở nông thôn và thành thị.
ü Đi đôi và kết hợp với phát triển kinh tế, cần
ra sức củng cố quốc phòng, tăng cường trật tự an ninh bảo vệ sự nghiệp xây dựng
CNXH ở miền Bắc.
-
Ngày
5/8/1964, Mỹ đưa máy bay ném bom bắn phá miền Bắc, cấm vận miền Nam.
-
Đảng
lãnh đạo tiếp tục xây dựng CNXH ở miền Bắc, vừa đấu tranh chống Mỹ, vừa chi
viện cho miền Nam và hoàn thành tốt nghĩa vụ quốc tế.
-
Hơn 20
năm quân và dân miền Bắc đã tập trung toàn bộ trí tuệ và sức lực vừa tiến hành
cách mạng CNXH ở miền Bắc, vừa bảo vệ vững chắc thành quả cách mạng, hoàn thành
xuất sắc nhiệm vụ của hậu phương đối với tiền tuyến và đạt được những thành tựu
to lớn:
ü Cơ sở vật chất – kỹ thuật của CNXH được xây
dựng một bước. Đã có những cơ sở đầu tiên của công nghiệp nặng. Năng lực các
ngành công nghiệp, giao thông, xây dựng đều tăng so với trước chiến tranh. Một
số trung tâm công nghiệp lớn của đất nước được hình thành.
ü Sự nghiệp giáo dục, y tế, văn hóa, nghệ thuật,
thể dục thể thao đều phát triển. Công tác đào tạo đội ngũ cán bộ khoa học kỹ
thuật và công nhân tăng gấp nhiều lần so với khi mới giải phóng. Mạng lưới y tế
được mở rộng từ TW đến cơ sở, từ đồng bằng đến miền núi. An ninh chính trị và
trật tự xã hội được giữ vững. Đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân ổn định
và có nhiều mặt được cải thiện. Tạo dựng được một xã hội lành mạnh, có trật tự,
kỷ cương, bình đẳng và quan hệ tốt đẹp giữa người với người, thể hiện tính ưu
việt của chế độ xã hội mới.
ü Miền Bắc hoàn thành xuất sắc nghĩa vụ của hậu
phương lớn đối với tiền tuyến lớn, đồng cam cộng khổ, sát cánh cùng đồng bào
miền Nam đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lược và bè lũ tay sai, giải phóng hoàn toàn
miền Nam, thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước đi lên CNXH.
ü Hoàn thành xuất sắc nghĩa vụ quốc tế đối với
cách mạng Lào và Campuchia.
-
Đánh
giá vai trò của miền Bắc đối với cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ IV (12/1976) khẳng định “không thể nào có thắng lợi
của sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ cứu nước nếu không có miền Bắc XHCN…” Miền
Bắc đã dốc vào cuộc chiến tranh cứu nước và giữ nước toàn bộ sức mạnh của chế
độ XHCN, đã làm tròn một cách xuất sắc vai trò là căn cứ địa cách mạng của cả
nước, xứng đáng là hậu phương lớn của miền Nam.
-
Để có
được thành quả đó là do Đảng ta luôn giữ vững tính độc lập tự chủ, linh hoạt
sáng tạo trong việc xác định đường lối cách mạng. Có nhận thức đúng đắn lý luận
chủ nghĩa Mác – Lênin về thời kỳ quá độ lên CNXH và vận dụng một cách sáng tạo
khi áp dụng vào thực tế miền Bắc.
Câu 7: Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ IV (12/1976) khẳng định “không thể nào có thắng lợi
của sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ cứu nước nếu không có miền Bắc XHCN…” Bằng
kiến thức Lịch sử Đảng hãy phân tích và chứng minh làm rõ khẳng định trên. Liên
hệ và vận dụng những bài học kinh nghiệm của thời kỳ này trong giai đoạn cách
mạng hiện nay.
* Hoàn
cảnh lịch sử:
Thế giới: tình hình thế giới có nhiều thuận
lợi nhưng cũng hết sức khó khăn. CNXH
ngày càng đc củng cố, phát triển mạnh mẽ đối với cách mạng thế giới.
Trong nước: sau chiến thắng ĐBP (5/1954) đất
nước ta bị chia cắt thành 2 miền. Miền Bắc tiến lên xây dựng CM XHCN, miền Nam
tiến lên Cm DT DC ND, giải phóng miền nam thồng nhất đất nước.
* Vai
trò của miền Bắc trong việc xây dựng CNXH
Tại
ĐH III của Đảng (9/1960) xác định đường lối xây dựng CNXH ở miền Bắc là: đưa
miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên CNXH. Để thực hiện nhiệm vụ,
mục tiêu đó phải sử dụng chính quyền dân chủ nhân dân làm nhiệm vụ lịch sử của
chuyên chính vô sản. Thực hiện cải tạo, xây dựng nền kinh tế XHCN, phải tiến
hành CNH, coi CNH là nhiệm vụ trọng tâm trong suốt thời ký quá độ lên CNXH.
Tiến hành cuộc CM XHCN trên lĩnh vực tư tưởng và văn hóa. Miền Bắc tiến lên
CNXH trong điều kiện đất nước có chiến tranh, phải vừa xây dựng CNXH, vừa chống chiến tranh phá hoại của đế
quốc Mỹ và làm tròn nghĩa vụ hậu phương cho tiến tuyến miền nam trong cuộc
kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược.
Trước tình hình đó Đảng ta đã xác định nhiệm
vụ của miền Bắc lúc này là phải chuyển hướng về tư tưởng và tổ chức, chuyển
hướng xây dựng kinh tế và tăng cường lực lượng quốc phòng cho tình hình mới.
Việc chuyển hướng phải đảm bảo cho miền Bắc đủ sức mạnh đáp ứng yêu cầu bảo vệ
miền bắc chống lại cuộc ném bom, bắn páh, phong tỏa của địch, sẵn sàng đối phó
với tình hình địch mở rộng chiến tranh ở bất kì mức độ nào, sẵn sàng chi viện
cho cuộc kháng chiến của đồng bào miền Nam; đồng thời đáp ứng yêu cầu xây dựng
cơ sở vật chất- kỹ thuật cho CNXH.
Phương châm Đảng ta vạch ra lúc này là: toàn
dân, toàn diện, dựa vào sức mình là chính, đồng thời tranh thủ sự đoàn kết và
chi viện của quốc tế. Với 10 năm xây dựng CNXH, miền Bắc đã đạt 1 số thành tựu
to lớn sau:
-
Quan hệ
sản xuất XHCN được xác lập, xóa bỏ chế độ chiếm hữu và bóc lột phong kiến
trường tồn trên đất nước ta hàng ngàn năm.
-
Bước
đầu xây dựng một số cơ sở vật chất kỹ thuật cho CNXH:
+ Ở lĩnh vực công nghiệp: nhiều khu CN lớn
được hình thành, những ngành CN nặng như: điện, than đá, cơ khí..cũng được xây
dựng và đưa vào hoạt động. CN nhẹ cũng rất phát triển. Năm 1975, toàn ngành CN
làm ra 55% giá trị tổng sản lượng nông nghiệp, 41% tổng sản phẩm XH, 20% thu
nhập quốc dân và 91,5% giá trị hàng xuất khẩu.
+ Ở lĩnh vực nông nghiệp: nhiều công trình
thủy lợi được xây dựng phục vụ sản xuất nông nghiệp. Nhiều thành tựu khoa học
kỹ thuật cũng được áp dụng vào trong sản xuất, tăng năng suất, tăng vụ…
+ Về mặt văn hóa, giáo dục và y tế: tính đến
năm 1975, trung bình cứ 3 người thì có 1 người đi học, tất cả trẻ em trong độ
tuổi đi học đều được đến trường, đội ngũ cán bộ KHKT và cán bộ quản lý có trình
độ trên ĐH, ĐH,Trung học chuyên nghiệp hơn 43 vạn người, tăng 19 lần so với năm
1960. Mạng lưới y tế chăm sóc sức khỏe của người dân cũng được mở rộng, số bác
sĩ và y sĩ tăng 13.4 lần so với 1960.
+ Cơ cấu xã hội – giai cấp đã có sự thay đổi
lớn. Xã hội miền Bắc đã trở thành xã hội của những người lao động bình đẳng. Sự
nhất trí về chính trị và tinh thần trong xã hội ngày càng cao.
Thành quả của 10 năm xây dựng CNXH ở miền
Bắc được nhận định trong báo cáo của CT
Hồ Chí Minh tại HN chính trị đặc biệt (3/1964) như sau: “Trong mười năm qua
miền bắc nước ta đã tiến những bước dài chưa từng thấy trong lịch sử dân tộc,
đất nước, xã hội và con người đều đổi mới” Tháng 12/1965 TW Đảng nhận định
“…Trải qua hơn 10 năm thực hiện CM XHCN và xây dựng CNXH, miền Bắc đã trở thành
căn cứ địa vững chắc cho CM VN trong cả nước,
với chế độ chính trị ưu việt, với lưc lượng kinh tế và quốc phòng lớn
mạnh…”
Trong hoàn cảnh đất nước có chiến tranh, cùng
1 lúc phải đảm đương cả hai nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ tổ quốc, Đảng đã có
những chủ trương đường lối hết sức phù hợp lòng dân và khiến họ toàn tâm toàn ý
cho sự nghiệp chung của cả dân tộc. Để có được thành quả đó là do Đảng luôn giữ
vững tình độc lập dân chủ, linh hoạt sáng tạo trong việc xác định đường lối
cách mạng. Có nhận thức đúng đắn lý luận CN Mac – Le6nin về thời kì quá độ lên
CNXH và vận dụng một cách sáng tạo khi áp dụng thực tế vào thực tế miền Bắc.
* Liên
hệ thực tiễn:
Đảng Cộng sản Việt Nam có đủ bản lĩnh chính
trị và năng lực lãnh đạo để tiếp tục tiến hành thắng lợi công cuộc đổi mới và
phát triển đất nước trước sự tác động phức tạp của bối cảnh chính trị, kinh tế,
an ninh... quốc tế hiện nay. Đó là điều mà nhân dân ta và bạn bè quốc tế hoàn
toàn tin tưởng. Tuy nhiên, các thế lực thù địch với CNXH thì ra sức phủ nhận
điều đó, nhất là vào thời điểm lịch sử hiện nay.
Tiến trình lịch sử của dân tộc Việt Nam hơn 81
năm qua gắn liền với vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam; khoảng thời
gian đó đã khẳng định trên thực tế: Đảng ta là đại diện chân chính, duy nhất
của dân tộc mà cho tới nay chưa có tổ chức chính trị nào khác có thể thay thế.
Mặc dù vậy, các thế lực thù địch, cơ hội, bất mãn vẫn tìm mọi cách để phủ định
thành tựu lãnh đạo của Đảng đối với đất nước, nhất là trong sự nghiệp xây dựng
và phát triển đất nước hiện nay. Với những luận điệu cho rằng, chủ nghĩa Mác -
Lê-nin đã lỗi thời và không thể đi liền với tư tưởng Hồ Chí Minh... chúng tập
trung xuyên tạc, bài bác chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; bởi lẽ,
đây là nền tảng tư tưởng đảm bảo cho sự gắn bó, đồng thuận xã hội, tăng cường
lòng tin của nhân dân với Đảng, với chế độ. Bất chấp những thành tựu to lớn
mang tính chất lịch sử của công cuộc đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo,
các thế lực thù địch đã tập trung khoét sâu vào những hạn chế, yếu kém trong
lãnh đạo, quản lý và tổ chức điều hành của hệ thống chính trị; công kích vào
đường lối đổi mới của Đảng. Chúng cho rằng: Đảng đã hết vai trò lịch sử; bước
sang giai đoạn mới, Đảng không có đủ khả năng để lãnh đạo; ….Nhiều luận điệu xuyên tạc, kích động xung
quanh các vấn đề quan hệ đối ngoại, chủ quyền lãnh thổ, biển đảo của đất nước...
đều nhằm gây ra sự hoài nghi giữa nhân dân với Đảng. Trước thềm Đại hội XI,
chúng tăng cường bịa đặt xấu về đời tư, về gia đình của nhiều đồng chí giữ vị
trí trọng trách trong Đảng, gán cho bộ máy trong hệ thống chính trị của Đảng
mọi điều xấu xa nhằm hạ uy tín của Đảng đối với nhân dân... Tư tưởng xuyên suốt
trong mọi mưu đồ của các thế lực thù địch là nhằm xoá bỏ vai trò lãnh đạo đất
nước của Đảng Cộng sản Việt Nam đã được xác nhận trong Điều 4 Hiến pháp nước
Cộng hoà XHCN Việt Nam và công khai kêu gọi thực hiện đa nguyên chính trị, đa
đảng đối lập.
Việc tăng cường chống phá chế độ XHCN, phủ
định vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam với mọi âm mưu và thủ đoạn xấu
độc của các thế lực thù địch là rất nguy hại. Điều đó cộng với việc chậm khắc
phục các hạn chế, yếu kém trong Đảng và sự thoái hoá về phẩm chất đạo đức, lối
sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên đã làm tổn hại đến thanh danh của Đảng
ta và phần nào đã làm suy giảm lòng tin của quần chúng đối với Đảng và chế độ
XHCN mà Đảng và nhân dân ta đang nỗ lực phấn đấu xây dựng.
Đại hội lần thứ XI của Đảng là một sinh hoạt
chính trị sâu rộng không những trong nội bộ Đảng mà trong toàn xã hội, để toàn
Đảng và toàn dân đánh giá toàn diện về vai trò lãnh đạo của Đảng trong công
cuộc đổi mới và phát triển đất nước hơn 25 năm qua. Đồng thời, thông qua ý kiến
của đông đảo nhân dân và những ai quan tâm, có thiện chí, thì đây còn là dịp để
Đảng tiếp thu những ý kiến chân tình, thắng thắn, xác đáng trong việc thực hiện
vai trò lãnh đạo đất nước hiện nay của mình. Mặc dù đây đó còn có ý kiến phủ định
vai trò lãnh đạo của Đảng; nhưng vượt lên trên tất cả, bao trùm nhất vẫn là sự
kỳ vọng, thiện cảm và tin tưởng của hầu hết người dân Việt Nam yêu nước chân
chính và những người có thiện chí đối với Đảng Cộng sản Việt Nam và tương lai
của đất nước Việt Nam. Thực tiễn là thước đo chân lý; thực tiễn với những thay
đổi lớn lao của đất nước, gắn liền với vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản trong
hơn 80 năm qua, trong đó có 25 năm đổi mới đã trở thành một đảm bảo hàng đầu để
người dân Việt Nam tiếp tục gửi gắm niềm tin và kỳ vọng của mình đối với thắng
lợi của công cuộc đổi mới, phát triển đất nước hiện nay dưới sự lãnh đạo của
Đảng.
Điều này còn được củng cố vững chắc thông qua
các Văn kiện Đại hội lần thứ XI của Đảng nhằm "đẩy mạnh toàn diện công
cuộc đổi mới, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công
nghiệp theo hướng hiện đại". Đại hội đã tổng kết toàn diện và sâu sắc
những thành tựu "to lớn và có ý nghĩa lịch sử" trong 20 năm thực hiện
"Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH": Đất
nước thực hiện [I]thành công[/I] công cuộc đổi mới, ra khỏi tình trạng kém phát
triển, bộ mặt đất nước và đời sống của nhân dân có nhiều thay đổi; sức mạnh về
mọi mặt được tăng cường, độc lập chủ quyền và chế độ XHCN được giữ vững, vị thế
và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao; tạo tiền đề để nước
ta tiếp tục phát triển mạnh mẽ hơn trong giai đoạn mới... Những đổi thay đó của
đất nước cùng với các chủ trương và giải pháp chiến lược có tính khả thi cao để
tiến hành thắng lợi công cuộc đổi mới và phát triển đất nước hiện nay của Đại
hội đã góp phần quan trọng tăng cường sự tin tưởng, gắn bó của toàn dân đối với
Đảng, với chế độ. Có thể khẳng định rằng: Đại hội XI của Đảng là một dấu mốc
quan trọng trên con đường tiến lên của dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng nhằm
đẩy mạnh công cuộc đổi mới, phát triển đất nước nhanh, bền vững theo mục tiêu
"dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh", vững bước đi lên
CNXH. Thông qua quá trình chuẩn bị và tiến hành Đại hội XI của Đảng còn cho
thấy, niềm tin vào Đảng Cộng sản Việt Nam không chỉ trong hầu hết mọi người dân
trong nước mà còn là tình cảm của đông đảo bạn bè trên thế giới. Các đảng viên
Đảng Cộng sản Pháp trong Chi bộ Thành phố Păng-tanh qua theo dõi Đại hội XI của
Đảng ta đã bày tỏ: Trong thế kỷ XX, dân tộc Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam đã đánh thắng mọi kẻ thù thực dân, đế quốc sừng sỏ, giành độc
lập dân tộc. Ngày nay, Đảng Cộng sản Việt Nam lại tiếp tục lãnh đạo đất nước
quyết tâm xây dựng thành công CNXH. Bài học thành công của Đảng Cộng sản Việt
Nam kể từ khi lãnh đạo nhân dân giành chính quyền và giành độc lập dân tộc cũng
như trong thời kỳ đổi mới là những kinh nghiệm vô cùng quý báu để các Đảng Cộng
sản, các đảng cánh tả tiến bộ trên toàn thế giới học hỏi. Ông Y-a-xư-ô Ôga-ta,
Phó chủ tịch Đảng Cộng sản Nhật Bản, khẳng định: vai trò của Đảng Cộng sản Việt
Nam mang tính quyết định trong việc lãnh đạo đất nước để đạt được các thành tựu
phát triển kinh tế-xã hội. Ông Hoóc-hê Crây-nết, Bí thư phụ trách quan hệ Quốc
tế của Đảng Cộng sản Ác-hen-ti-na, đánh giá: con đường xây dựng CNXH tại Việt
Nam là tấm gương sáng và công cuộc đổi mới tại Việt Nam là nguồn cổ vũ cho cuộc
đấu tranh vì CNXH tại Mỹ La-tinh...
Những gì đang diễn ra trong đời sống xã hội và
qua thái độ của hầu khắp mọi người dân và bạn bè quốc tế qua Đại hội Đảng lần
thứ XI đã cho thấy, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam cả trong quá
khứ và hiện tại đã được thực tế lịch sử và nhân dân Việt Nam xác nhận. Điều đó
không phải tự nhiên có được từ ý muốn chủ quan của Đảng hay từ sự thiện cảm bột
phát, cảm tính của quần chúng nhân dân và bạn bè quốc tế. Tuy nhiên, để tiếp
tục giữ vững được lòng tin và vai trò lãnh đạo đối với dân tộc trong thời kỳ
mới, Đảng phải có sự quyết tâm vượt bậc để vượt qua mọi khó khăn, thách thức;
trong đó, tập trung khắc phục sự hạn chế, yếu kém, bất cập về phẩm chất, năng
lực của đội ngũ cán bộ, đảng viên, trước hết là chủ động phòng ngừa sự "tự
diễn biến" trong nội bộ; khắc phục sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo
đức lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên; giữ gìn sự đoàn kết, thống
nhất trong Đảng để xứng đáng với trọng trách lịch sử đã được nhân dân giao phó.
Câu 8: Anh
(chị) hãy cho biết các bước đột phá tìm tòi đường lối đổi mới và sự phát triển
nhận thức của Đảng ta về con đường đi lên CNXH ở nước ta ngày càng sáng tỏ hơn?
Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của vấn đề trên?
- Sau khi miền Nam được giải phóng, đất nước
thống nhất, cả nước bước vào thời kỳ quá độ lên CNXH với những thuận lợi cơ bản
cũng như cũng không ít khó khăn, thách thức.
- Nước ta đi lên CNXH với điểm xuất phát rất
thấp, hậu quả của 30 năm chiến tranh hết sức nặng nề, lại phải tiến hành chiền
tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam và Biên giới phía Bắc. Trên thế giới,
các nước XHCN lâm vào tình trạng khó khăn, trì trệ. Tình hình đó đặt ra cho
Đảng và nhân dân ta phải tìm cách đi phù hợp với hoàn cảnh nước ta.
- Tại Đại hội IV của Đảng (12/1976), Đảng ta đã đề
ra đường lối chung và đường lối xây dựng nền kinh tế XHCN, đề ra những chỉ tiêu
cụ thể cho kế hoạch 5 năm (1976 – 1980). Tuy nhiên, những kết quả mang lại còn
thấp so với yêu cầu và chưa tương xứng với công sức bỏ ra. Đến 1980, hầu như
toàn bộ các chỉ tiêu của kế hoạch 5 năm đều không thực hiện được. Nền kinh tế
nước ta lâm vào khủng hoảng. Trước thực tế đó, đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân ta
phải tìm ra con đường đổi mới đất nước.
- Tháng 8/1979, Hội nghị TW6 khóa IV họp bàn
những vấn đề cấp bách về kinh tế XH và vấn đề hàng tiêu dùng, hội nghị khẳng
định sự cần thiết phải tồn tại thị trường tự do, khuyến khích sản xuất “bung
ra” đúng hướng, khắc phục những khuyết điểm trong quản ký kinh tế, trong cải
tạo XHCN, đề ra chủ trương phù hợp để phát triển lực lượng sản xuất, Hội nghị
TW6 đánh dấu bước đột phá đầu tiên của quá trình tìm tòi đường lối đổi mới của
Đảng.
- Thực hiện chủ trương của hội nghị TW6, chính
phủ đã có những quyết định kịp thời về việc bãi bỏ các trạm kiểm soát có tính
chất ngăn sông cấm chợ, cản trở việc lưu thông hàng hóa, khuyến khích tận dụng
ruộng đất nông nghiệp vào sản xuất; mở rộng kinh doanh thương nghiệp XHCN,
chính sách phân phối theo lao động, kích thích sản xuất phát triển.
- Ngày 13/1/1981, Ban bí thư TW Đảng ra chỉ thị
100 CT – TW về khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động trong hợp tác xã. Chỉ
thị 100 đã tạo ra động lực mới trong sản xuất nông nghiệp.
- Trong công nghiệp, Chính phủ ban hành quyết
định 25/CP và 26/CP nagỳ 21/1/1981 về chủ trương, biện pháp cải tiến cơ chế
quản lý trong kinh tế quốc doanh, điểm mới trong quản lý công nghiệp…làm giảm
tình trạng trì trệ trong sản xuất của các doanh nghiệp nhà nước. Năm 1981 lần
đầu tiên sau chiến tranh, sản xuất công nghiệp đạt kế hoạch, riêng công nghiệp
địa phương vượt kế hoạch 7,5%.
- Tại Đại hội V của Đảng họp tại Hà Nội từ ngày
27 đến ngày 31/3/1982, chủ trương tiếp tục tìm tòi cơ chế quản lý mới cho thích
hợp, xóa bỏ cơ chế cũ, điều chỉnh lại cơ cấu, quy mô, tốc độ và các bước đi của
công nghiệp hóa. Đại hội đã phân chia thời kỳ quá độ thành nhiều chặng và xác
định chúng ta đang ở chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ. Nhiệm vụ chặng
đường đầu tiên tạo tiền đề cơ sở vật chất chuyển sang Công nghiệp hóa.
- Việc thực hiện nghị quyết Đại hội V, tình hình
kinh tế xã hội có những chuyển biến nhất định. Tuy nhiên, trên lĩnh vực lưu
thông phân phối còn nhiều vấn đề chưa được giải quyết. Trong bối cảnh đó, Đảng
và nhà nước cải cách giá – lương – tiền lần thứ 1 năm 1981 – 1982 nhưng đã làm
cho lạm phát trầm trọng thêm. Trước tình hình đó, tháng 6/1985, hội nghị TW8
họp chuyên bàn về giá – lương – tiền, quyết định phải dứt khoát xóa bỏ tập
trung quan liêu bao cấp, thực hiện chế độ tập trung dân chủ, hoạch toán kinh tế
và kinh doanh XHCN. Hội nghị TW8 cho thấy Đảng đã có sự đổi mới tư duy trên
lĩnh vực phân phối lưu thông một cách cơ bản, đã thừa nhận sản xuất hàng hóa và
những quy luật của sản xuất hàng hóa. Hội nghị TW8 đánh dấu bước đột phá thứ 2
trong quá trình đổi mới tư duy của Đảng.
- Ngày 10/7/1986, Tổng bí thư Lê Duẩn qua đời.
Tại phiên họp đặc biệt của TW Đảng ngày 14/7/1986, đồng chí Trường Chinh được
bầu làm Tổng bí thư. Ngày 20/9/1986, Bộ Chính trị đã có những kết luận về một
số vấn đề thuộc quan điểm kinh tế:
ü Về cơ cấu kinh tế, cần bố trí đúng cơ cấu các
ngành kinh tế, cơ cấu sản xuất và đầu tư; đặc trưng cần nắm vững là nền kinh tế
cơ cấu nhiều thành phần.
ü Về cơ chế quản lý: xóa bỏ cơ chế tập trung
quan liêu bao cấp, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong công tác quản
lý và sử dụng quan hệ hàng hóa – tiền tệ, thị trường trong cơ chế kế hoạch hóa.
Trong điều chỉnh lớn phương án bố trí cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư phải thực
sự lấy nông nghiệp làm mặt trận hàng đầu.
à những kết luận này là bước đột phá thứ 3
trong quá trình tìm đường đổi mới.
- Tại Đại hội VI (12/1986) đã đề ra đường lối đổi
mới toàn diện đất nước một cách triệt để, sâu sắc, mang ý nghĩa như một cuộc
cách mạng. Trong đổi mới toàn diện, Đảng bắt đầu tự đổi mới tư duy về CNXH và
con đường đi lên CNXH ở Việt Nam. Trên nền tảng các nguyên lý phổ biến của chủ
nghĩa Mác – Lênin và nhất là kinh nghiệm thực tiễn ở Việt Nam. Trong đổi mới tư
duy, Đại hội VI chọn khâu đột phá là đổi mới tư duy kinh tế:
ü Thừa nhận kinh tế nhiều thành phần.
ü Chuyển nền kinh tế từ tâp trung, bao cấp, kế
hoạch hóa cao độ sang hoạch toán kinh doanh XHCN.
ü Mở cửa nền kinh tế Việt Nam với khu vực và
trên thế giới.
ü Tập trung vào 3 chương trình kinh tế lớn: sản
xuất lương thực thực phẩm, sản xuất hàng tiêu dùng và sản xuất hàng xuất khẩu.
ü Đổi mới toàn diện triệt để sâu sắc nhưng có
nguyên tắc, lấy đổi mới kinh tế là trọng tâm hàng đầu trên cơ sở giữ vững ổn
định chính trị. Để giữ vững ổn định chính trị phải đảm bảo các nguyên tắc:
v Kiên trì độc lập dân tộc gắn liền với CNXH.
v Đổi mới trên quan điểm lập trường Chủ nghĩa
Mác – Lênin, giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng ta, bản chất nhà nước cách mạng
của ta, kết hợp sức mạnh của dân tộc và của thời đại trong điều kiện mới.
-
Tại Đại
hội VII (6/1991) của Đảng tiếp tục bổ sung đường lối đổi mới của Đảng ta.
ü Đề ra và thông qua Cương lĩnh thứ 4 của Đảng
ta: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Trong Cương
lĩnh này lần đầu tiên trong lịch sử của Đảng ta đã đưa ra mô hình và con đường
đi lên CNXH riêng cho Việt Nam với 6 đặc trưng cơ bản và 7 phương hướng cơ bản.
Cương lĩnh năm 1991 đã tạo ra cơ sở lý luận và nền tảng lý luận cho đổi mới.
ü Tại Đại hội VII lần đầu tiên Đảng ta đưa ra
khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh.
ü Lần đầu tiên Đảng ta xây dựng chiến lược ổn
định và phát triển kinh tế XH từ 1991 đến 2000 với mục tiêu: Đưa Việt Nam ra
khỏi khủng hoảng KT – XH. Đây là chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ của
Đảng ta.
ü Đại hội đánh dấu sự coi trọng của Đảng đối với
công tác xây dựng Đảng, chỉnh đốn Đảng.
ü Đại hội VII đã củng cố niềm tin, khơi dậy các
nguồn lực trong Đảng, trong nhân dân. Kiên trì CNXH khi Đông Âu đã tan rã và
Liên Xô sắp sụp đổ.
-
Tại Đại
hội VIII (từ 28/6 đến 1/7/1996) của Đảng đã tổng kết 10 năm thực hiện công cuộc
đổi mới và thực hiện nghị quyết của Đại hội VII, quyết định mục tiêu, phương
hướng, giải pháp thực hiện CNH – HĐH đất nước đến năm 2010 và 2020, bổ sung,
sửa đổi Điều lệ Đảng.
-
Nước ta
ra khỏi khủng hoảng KT – XH, tuy còn một số chưa vững chắc, thế và lực được
tăng cường cho phép chuyển sang thời kỳ đẩy mạnh CNH – HĐH đất nước. Đại hội đã
đưa ra mục tiêu:
ü Đến năm 2020 Việt Nam trở thành nước công
nghiệp cơ bản phát triển theo hướng hiện đại.
ü Đại hội VIII đã chỉ ra mục tiêu chung: dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh.
ü Đại hội VIII tổng kết thành phương châm: phát
triển kinh tế là trọng tâm; xây dựng Đảng, chỉnh đốn Đảng là nhiệm vụ then
chốt. (tập trung phát triển lực lượng sản xuất từng bước hình thành quan hệ sản
xuất phù hợp)
ü Đại hội VIII đã bổ sung thêm cho đường lối đổi
mới là chiến lược CNH – HĐH đất nước.
-
Đại hội
lần thứ IX (4/2001)
ü Đại hội đã tổng kết cách mạng Việt Nam trong
thế kỷ 20, rút ra 3 thành tựu to lớn mang ý nghĩa lịch sử: thắng lợi CMT8 năm
1945; thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ và tay
sai; thắng lợi của sự nghiệp đổi mới đi lên CNXH ở nước ta.
ü Đại hội đã dự báo về thời cuộc và thời đại,
những đòi hỏi của cách mạng Việt Nam trong những năm đầu thế kỷ 21. Để đề ra
quan điểm kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, đẩy mạnh toàn
diện công cuộc đổi mới trên cơ sở phát huy nội lực là chính, tranh thủ ngoại
lực, chủ động tích cực hội nhập kinh tế quốc tế.
ü Đại hội đã đưa ra thuật ngữ Kinh tế thị trường
định hướng XHCN và coi đây là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong suốt
quá trình quá độ lên CNXH.
ü Đưa mục tiêu dân chủ vào mục tiêu chung: Dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
ü Đại hội đã đề ra chiến lược phát triển kinh tế
xã hội 2001 – 2010 nhằm đưa Việt Nam thoát khỏi tình trạng nước nghèo kém phát
triển.
-
Đại hội
X (4/2006)
ü Đại hội đã tổng kết 20 năm đổi mới và bổ sung
cho những đặc trưng cho CNXH ở nước ta gồm 8 đặc trưng và 8 phương hướng, chỉ
đạo sự nghiệp xây dựng CNXH.
ü Đề ra nhiệm vụ phấn đấu đến năm 2020 Việt Nam
phải thoát khỏi tình trạng nước nghèo kém phát triển để trở thành nước có thu
nhập trung bình.
ü Đại hội X rất coi trọng công tác xây dựng Đảng
và chỉnh đốn Đảng trong quá trình Đảng cầm quyền; phát triển kinh tế thị trường
địn hướng XHCN và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
-
Đại hội
XI (1/2011)
ü Đại hội đã tổng kết 25 năm đổi mới và 20 năm
thực hiện Cương lĩnh 1991.
ü Đại hội đã bổ sung và phát triển cương lĩnh
1991 trên tất cả các nội dung. Đặc biệt là trong mô hình, phương hướng chỉ đạo
sự nghiệp xây dựng CNXH trong thời kỳ quá độ của nước ta: 8 đặc trưng, 8 phương
hướng cơ bản và 8 mối quan hệ lớn.
ü Đại hội đã đề ra chiến lược phát triển KT – XH
2011 – 2020 với mục tiêu biến Việt Nam trở thành nước công nghiệp cơ bản phát
triển theo hướng hiện đại vào năm 2020.
ü Bổ sung và sửa đổi Điều lệ Đảng.
Có thể nói quá trình tìm tòi đường
lối đổi mới và sự phát triển nhận thức của Đảng ta về con đường đi lên CNXH
ngày càng sáng tỏ qua các kỳ Đại hội. Nó đã mang lại những thành tựu mang ý
nghĩa to lớn: Việt Nam từ một quốc gia bị phong tỏa cấm vận, từ một nền kinh tế
kém phát triển và đóng cửa. Sau hơn 20 năm đổi mới VN đã vươn mạnh ra thế giới,
đến nay VN đã có quan hệ ngoại giao với gần 170 nước và vùng lãnh thổ, mở rộng
quan hệ kinh tế thương mại với 220 quốc gia. VN còn là thành viên chính thức
của nhiều tổ chức kinh tế quốc tế và khu vực và điều đáng nói nhất là năm 2007
VN trở thành thành viên chính thức thứ 150 của Tổ chức Thương mại Thế giới
(WTO).
Phúc lợi xã hội và đời sống vật chất,
tinh thần của người dân được cải thiện rõ rệt theo đánh giá của Liên hiệp Quốc,
VN đã về đích trước 10 năm với mục tiêu xóa đói giảm nghèo trong thực hiện mục
tiêu thiên niên kỷ.
Độc lập chủ quyền, thống nhất toàn vẹn
lãnh thổ và chế độ XH được giữ vững, lợi thế và uy tín của VN trên trường quốc
tế được nâng cao. Sức mạnh tổng hợp của
đất nước đã tăng lên rất nhiều, tạo tiền đề để nước ta tiếp tục phát
triển mạnh mẽ theo con đường XHCN.
Câu 9: Vị trí
vai trò của phương pháp cách mạng và nêu những thàn h công của phương pháp cách
mạng (hình thức, cách thức, phương châm …) mà Đảng ta đã thực hiện trong quá
trình lãnh đạo cách mạng nước ta ? Liên hệ vận dụng bài học trên vào cơ quan
đơn vị đang công tác của anh (chị) ?
Phương
pháp là cách thức tiến hành.
Vai trò
phương pháp cách mạng : Phương pháp đúng thì dẫn đến thành công, nếu sai thì dẫn đến hậu quả.
Thắng lợi của CM T8 năm 1945 là thành quả tổng
hợp của phong trào cách mạng, từ cao trào XVNT, cuộc vận động dân sinh dân chủ
1936 – 1939 đến phong trào giải phóng dân tộc 1939 – 1945
Trong
cương lĩnh chính trị đầu tiên, Đảng đã khẳng định : về phương hướng cách mạng
VN là làm tư sản dân quyền CM và thổ địa CM để đi tới XH cộng sản. phương pháp
cách mạng là bạo lực cách mạng của quần chúng để đánh đổ Đế quốc phong kiến
(chính trị và vũ trang),chứ không thể là con đường cải lương thỏa hiệp. lực
lượng CM phải đoàn kết công nhân, nông
dân, trong đóa g/c công nhân lãnh đạo, đây là lực lượng cơ bản. Sự đúng đắn
trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên đã được khẳng định bởi quá trình khảo
nghiệm của lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước quá độ đi
lên CNXH của dân tộc ta từ khi Đảng ra đời cho cho đến nay vẫn là ngọn cờ dẫn
dắt nhân ta trong công cuộc đổi mới theo
định hướng XHCN.
Trong
quá trình lãnh đạo, Đảng ta đã khéo léo kết hợp tuỳ theo từng giai đoạn lịch sử
: như giai đoạn 1936 – 1939 : trước tình hình tác động của cuộc khủng hoảng
kinh tế thế giới, nguy cơ phát xít và chiến tranh thế giới, ban lãnh đạo của
Đảng CSĐD họp ở Thượng Hải (TQ) do đ/c Lê Hồng Phong chủ trì, Đảng xác định kẻ
thù trước mắt của nhân dân ĐD là bọn phản động thuộc địa va bè lũ tay sai. Hội
nghị quyết định thay đổi các hình thức tổ chức và phương pháp đấu tranh của
quần chúng, từ tổ chức bí mật đấu tranh không hợp pháp là chủ yếu sang các hình
thức tổ chức và đấu tranh hợp pháp, nửa hợp pháp ; công khai, nửa công khai, đó
là thành quả hiếm có đối với một Đảng cộng sản ở một nước thuộc địa.
Đến
giai đoạn 1939 – 1945 : chiến tranh thế giới thứ 2 bùng nổ, phát xít Nhật xâm
lược ĐD. Đảng chủ trương nêu cao nhiệm vụ giải phóng dân tộc.Trung ương Đảng
họp tại Bà Điểm (Hóc Môn) do đ/c Nguyễn Văn Cừ, TBT của Đảng chủ trì (1939).
Hội nghị xác định mục tiêu là đánh đổ đế quốc và tay sai, giải phóng ĐD, chuyển
hướng hình thức tổ chức và hình thức đấu tranh, đề ra khẩu hiệu thành lập chính
phủ Liên bang CHDCĐD. Quyết định thành lập Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế
ĐD, từng bước hoàn chỉnh đường lối CM, dùng hình thức khởi nghĩa từng phần,
giành thắng lợi từng bước tiến tới giành chính quyền cả nước, đã đưa đến thắng lợi vào ngày 2/9/1945, Bác
Hồ đọc bản tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nước VNDCCH.
Sau
1954 : thời kỳ 54 – 56, đất nước bị chia cắt làm 2 miền với 2 chế độ khác nhau.
Đảng lãnh đạo nhân dân cả nước tiến hành đồng thời 2 chiến lược cách mạng :
CMDCND ở miền Nam và XHCN ở MB. Cách mạng miền Nam chuyển từ đấu tranh vũ trang
quân sự sang đấu tranh chính trị đòi thi hành
hiệp định Gionevo, Đảng chủ trương đấu tranh chính trị giữ vai trò quyết
định.Tháng 6/1956, đ/c Lê Duẩn, ủy viên bộ chính trị, bí thư Xứ ủy Nam bộ đã dự
thảo bản đề cương cách mạng Việt Nam ở miền Nam, chuyển hướng từng bước kết hợp
đấu tranh chính trị và quân sự để từng bước đánh thắng kế hoạch chiến tranh
chiến tranh đặc biệt (1961 – 1965) của Mỹ.
Theo
tinh thần Nghị quyết 11 (T3/1965) và nghị quyết 12 (12/1965) của Đảng nhận định
tính chất cơ bản của chiến tranh vẫn là chiến tranh xâm lược thực dân mới của
đế quốc Mỹ. về đường lối cách mạng MN, tiếp tục tiến công và phản công, kết hợp
đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị nhưng đấu tranh quân sự ngày càng có
quyến định trực tiếp và giữ 1 vị trí ngày càng quan trọng. Nêu ra phương châm
chiến lược chung là chiến đấu lâu dài, dựa vào sức mình là chính. Tư tưởng chỉ
đạo chiến lược là giữ vững và phát triển thế tiến công. Đẩy mạnh tiến công trên
mặt trận ngoại giao, đã lần lượt đánh thắng chiến tranh cục bộ (1965 – 1969) và
chiến lược VN hóa chiến tranh (1969 – 1972) , cuối cùng buộc đế quốc Mỹ phải ký
hiệp định Paris ngày 21/01/1973 về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở VN.
Những
thành công của phương pháp cách mạng khẳng định tính đúng đắn, khoa học và sáng
tạo của đường lối chiến tranh nhân dân dưới ánh sáng lý luận ML và tư tưởng
HCM. Đó là đường lối kháng chiến độc lập, tự chủ của ĐCSVN, biết kết hợp mục
tiêu độc lập dân tộc với CNXH, tạo nên xung kích cho sự nghiệp thống nhất TQ.
Lý luận cách mạng sáng tạo, đường lối đúng đắn
đã trở thành ngọn cờ tập hợp sức
mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại, kết hợp yếu tố trong nước với quốc tế,
phối hợp sức mạnh của 2 miền Nam – Bắc để đi tới thắng lợi cuối cùng. Quá trình
lãnh đạp, Đảng đã kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại
Nhưng nếu
dùng phương pháp cách mạng không đúng thì sẽ gây hậu quả. Ví dụ vào những năm 1954 – 1960, do
chính sách tàn bạo của Mỹ - Diệm, lực lượng cách mạng miền Nam bị tổn thất lớn,
khuyết điểm của ta trong lúc ấy là thiếu chuẩn bị đầy đủ tư tưởng trong cán bộ
và quần chúng cho một cuộc đấu tranh cách mạng gian khổ và lâu dài, quần chúng
và cán bộ ỷ lại vào cái mốc thời gian đã quy định trong Hiệp nghị Giơnevơ,
không chuẩn bị thế thủ thích hợp với tương quan lực lượng mới, đã để phong trào
kéo dài, , cơ sở ta bị bộc lộ. Do đó, như ở trung châu Liên khu V, khi địch tấn
công lại ta, chúng đánh trúng cơ sở của ta, cán bộ và quần chúng hoang mang,
phong trào sa sút (54 – 60 Nam bộ từ 60 ngàn ĐV, chỉ còn lại 5.000, Liên khu V
: 12 quan khôong con cơ sở, 70% chi ủy viên bị băt giết, CMMN roi vào thời kỳ
đen tối có nguy cơ xóa sổ. Đây là thời kỳ đen tối của cách mạng miền Nam. Song,
nhờ chủ trương chuyển hướng kịp thời của Đảng và với tinh thần kiên định, dũng
cảm của cán bộ, đảng viên và nhân dân miền Nam, cách mạng không bị tiêu diệt
Hội
nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 15 (mở rộng) họp từ ngày 12 đến
22-1-1959, thấy được những khuyết điểm, khó khăn phúc tạp, đã chỉ đạo phương
pháp cách mạng là chuyển từ đấu tranh vũ
trang sang đấu tranh chính trị, từ hoạt động công khai chuyển sang hoạt động bí
mật, và đưa ra những vấn đề cần khắc phục : chú trọng xây dựng cho cán bộ và
đảng viên tư tưởng cách mạng trường kỳ gian khổ. ; phải nhận rõ ta đang ở
"thế " nào trong cuộc đấu tranh với địch ở miền Nam. tương quan lực
lượng giữa ta và địch đã đổi mới, phải đứng trên cơ sở của thế thủ nghĩa là
triệt để sử dụng thế công khai hợp pháp, bố trí lực lượng cán bộ lại theo thế
thủ. Phải nhận rõ chỗ mạnh và chỗ yếu của địch để biết hướng phòng ngự và biết hướng
tấn công. Do hướng chỉ đạo đúng mà ta đã gây dựng lại được lực lượng.
Nhà
Văn hóa Thanh niên được thành lập từ tháng 9 năm 1975, là đơn vị cấp 2 của
Thành đoàn TP. Hồ Chí Minh, nên nhiệm vụ chủ yếu của cơ quan là tập họp thanh
niên bằng các loại hình văn hóa, từ đó giáo dục đoàn viên thanh niên về lý
tưởng cộng sản, Bác, Đảng, Đoàn và xã hội chủ nghĩa nên đã vận dụng như sau :
Phương pháp lãnh đạo cơ quan :
§ Theo sự lãnh đạo của Đảng : Các vấn đề quan
trọng của cơ quan đều được đưa ra bàn bạc và có sự thống nhất của chi ủy về
công tác cán bộ, tổ chức bộ máy nhân sự cơ quan. Đề ra phương hướng hoạt động,
xây dựng thỏa ước lao động tập thể, tổ chức hội nghị cán bộ công chức hàng năm
cho CBCC, người lao động đóng góp và thực hiện theo đúng qui định của nhà nước
và cơ quan chủ quản là Thành đoàn
§ Hoạt động công đoàn và chi đoàn : theo phương
hướng hoạt động cơ quan và theo sự chỉ đạo của chi ủy, tổ chức các phong trào
thi đua, thực hiện các công trình, sáng kiến, hiến kế, thực hành tiết kiệm
chống lãng phí trong tổ chức các chương trình, trong sinh hoạt hàng ngày ; hoàn
thành xuất sắc nhiệm vụ cơ quan ; đóng góp ý kiến cho cơ quan, chi bộ … để đoàn
viên, công đoàn viên, người lao động góp
ý (chính trị - đại đoàn kết dân tộc)
§ Về chính quyền : ra nội qui, qui định cơ quan
trong việc thực hiện nhiệm vụ ; có khen thưởng, kỷ luật, động viên kịp thời. Tổ
chức đánh giá cán bộ công chức hàng năm. Tổ chức cho cán bộ công nhân viên góp
ý về qui hoạch, tổ chức bộ máy, phương hướng, tổng kết, hoạt động năm của cơ
quan. Mọi vấn đề liên quan đến cán bộ công chức, người lao động đều trao đổi
bàn bạc với công đoàn. Tạo điều kiện để Đảng, đoàn thể hoạt động, tổ chức phong
trào thi đua để góp phần hoàn thành nhiệm vụ cơ quan.
Chính quyền có tính mệnh lệnh là chính, có
tính bắt buộc phải thực hiện (bạo lực cách mạng) : cứng rắn trong công tác,
kiên quyết, công bằng trong thi đua để khuyến khích CBCNV, người lao động hoàn
thành tốt nhiệm vụ.
Đảng lãnh đạo các hoạt động của cơ quan, đoàn
thể. Mọi vấn đề, phát động phong trào, v.v… đề xin ý kiến chỉ đạo của cấp ủy.
Đoàn Thanh niên và công đoàn : gần gũi, vận
động các CBCNV – người lao động tham gia hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị của
cơ quan thông qua các phong trào được phát động như : cuộc vận động học tập và
tàm theo tấm gương đạo đức HCM, phong trào thi đua xanh, sạch, đẹp cơ quan,
thực hành tiết kiệm chống lãng phí, các phong trào về thể dục thể thao … đã
được CBCC, NLĐ tham gia sôi nổi. Gắn bó với người lao động, xây nhà tình thương
cho công đoàn viên, tổ chức thăm Tết, thăm bệnh, nghỉ mát, các hoạt động cho
con em CBCNV … để từ đó nắm được tâm tư, tình cảm của người lao động. Là nơi đề
quần chúng đóng góp ý kiến cho cơ quan, chi bộ và thực hiện chức năng bảo vệ
quyền lợi hợp pháp, chính đáng của người lao động
Nhờ sử dụng đúng phương pháp, nên CBCC-NLĐ gắn
bó với cơ quan, hiểu và thực hiện phương hướng nhiệm vụ đề ra hàng năm, nghiêm
chỉnh chấp hành nội qui, qui định do cơ quan đề ra, sôi nổi, tích cực tham gia
các phong trào do Chi doàn và công đoàn phát động
Tác giả: Phạm Ngọc An
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét