(VOV) -
Nhân chuyến thăm hữu nghị chính thức Cộng hòa Cuba, Tổng Bí thư Nguyễn Phú
Trọng đã có bài nói chuyện quan trọng tại trường Đảng Cao cấp Nico Lopez.
VOV xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc toàn văn bài nói chuyện
này.
Thưa các đồng chí và các bạn,
Nhân dịp sang thăm Cuba, hôm nay Đoàn
đại biểu cấp cao Đảng Cộng sản Việt Nam hết sức vui mừng đến thăm Trường Đảng
Cao cấp Nico Lopez - một trung tâm đào tạo, bồi dưỡng cán bộ rất quan trọng của
Trung ương Đảng Cộng sản Cuba. Thay mặt các đồng chí trong Đoàn và nhân danh cá
nhân, tôi xin gửi tới các đồng chí và các bạn lời chào đoàn kết và hữu nghị.
Chúc mối quan hệ tốt đẹp của chúng ta ngày càng phát triển, mãi mãi gắn bó,
giúp đỡ lẫn nhau, cùng vững bước trên con đường đấu tranh vì hoà bình, độc lập
dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.
Trong không khí tin cậy,
thắm tình đồng chí anh em, tôi xin trao đổi với các đồng chí một số ý kiến
chung quanh vấn đề chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Đây
là một đề tài lý luận và thực tiễn rất cơ bản, quan trọng, nội dung rất rộng
lớn, phong phú và phức tạp, có nhiều cách tiếp cận khác nhau, đòi hỏi phải có
sự nghiên cứu rất công phu, nghiêm túc, tổng kết thực tiễn một cách sâu sắc,
khoa học. Tôi chỉ xin đề cập một số khía cạnh từ góc nhìn thực tiễn của Việt
Nam để các đồng chí tham khảo, cùng trao đổi. Và cũng chỉ tập trung vào trả lời
mấy câu hỏi: Chủ nghĩa xã hội là gì? Vì sao Việt Nam lựa chọn con đường xã hội
chủ nghĩa? Làm thế nào và bằng cách nào để từng bước xây dựng được chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam? Thực tiễn công cuộc đổi mới, đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
trong 25 năm qua có ý nghĩa gì và đặt ra vấn đề gì?
Như chúng ta biết, chủ
nghĩa xã hội thường được hiểu với ba tư cách: chủ nghĩa xã hội là một học
thuyết; chủ nghĩa xã hội là một phong trào; chủ nghĩa xã hội là một chế độ. Mỗi
tư cách ấy lại có nhiều biểu hiện khác nhau, tùy theo thế giới quan và trình độ
phát triển ở mỗi giai đoạn lịch sử cụ thể. Chủ nghĩa xã hội đề cập ở đây là chủ
nghĩa xã hội khoa học dựa trên học thuyết Mác - Lênin trong thời đại ngày nay.
Trước đây, khi còn Liên
Xô và hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa thế giới thì vấn đề đi lên chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam chúng tôi dường như không có gì phải bàn, nó mặc nhiên coi
như đã được khẳng định. Nhưng từ sau khi Liên Xô tan rã, chế độ xã hội chủ
nghĩa sụp đổ ở nhiều nước, cách mạng thế giới lâm vào thoái trào thì vấn đề đi
lên chủ nghĩa xã hội lại được đặt ra và trở thành tâm điểm thu hút mọi sự bàn
thảo, thậm chí tranh luận gay gắt. Các thế lực chống cộng, cơ hội chính trị thì
hí hửng, vui mừng, thừa cơ dấn tới để xuyên tạc, chống phá. Trong hàng ngũ cách
mạng cũng có người bi quan, dao động, nghi ngờ tính đúng đắn, khoa học của chủ
nghĩa xã hội, quy kết nguyên nhân tan rã của Liên Xô và các nước xã hội chủ
nghĩa Đông Âu là do sai lầm của chủ nghĩa Mác-Lênin, chủ nghĩa xã hội. Từ đó họ
cho rằng chúng ta đã chọn đường sai, cần phải đi con đường khác. Có người phụ
họa với các luận điệu thù địch, công kích, bài bác chủ nghĩa xã hội, ca ngợi
một chiều chủ nghĩa tư bản. Thậm chí có người còn sám hối về một thời đã tin
theo chủ nghĩa Mác-Lênin và con đường xã hội chủ nghĩa! Có phải như vậy không?
Có phải hiện nay chủ nghĩa tư bản, kể cả những nước tư bản chủ nghĩa già đời
vẫn đang phát triển tốt đẹp không?
Chúng ta thừa nhận rằng,
chủ nghĩa tư bản chưa bao giờ mang tính toàn cầu như ngày nay và cũng đã đạt được
nhiều thành tựu to lớn, nhất là trong lĩnh vực giải phóng và phát triển sức sản
xuất, phát triển khoa học - công nghệ. Nhiều nước tư bản phát triển, trên cơ sở
các điều kiện kinh tế cao và do kết quả đấu tranh của giai cấp công nhân và
nhân dân lao động đã có những biện pháp điều chỉnh, hình thành được không ít
các chế độ phúc lợi xã hội tiến bộ hơn so với trước. Tuy nhiên, nó không thể
khắc phục được những mâu thuẫn cơ bản vốn có của nó. Từ giữa thập kỷ 70 và nhất
là từ sau khi Liên Xô tan rã, chủ nghĩa tư bản thế giới đã một lần nữa bộc lộ
rõ bản chất của mình bằng việc thúc đẩy các chính sách "tự do mới"
trên quy mô toàn cầu. Và hôm nay chúng ta đang chứng kiến những diễn biến của
cuộc khủng hoảng tài chính, suy thoái kinh tế, bắt đầu từ năm 2008 ở nước Mỹ,
nhanh chóng lan rộng ra các trung tâm tư bản chủ nghĩa khác và tác động đến hầu
hết các nước ở các châu lục. Các nhà nước, các chính phủ tư sản ở phương Tây đã
bơm những lượng tiền khổng lồ để cứu các tập đoàn kinh tế xuyên quốc gia, các
tổ hợp công nghiệp, tài chính, ngân hàng, thị trường chứng khoán, nhưng chưa
thành công. Kinh tế suy thoái đã làm phơi bày sự thật của những bất công xã hội
trong các xã hội tư bản chủ nghĩa: đời sống của đa số dân cư lao động bị giảm
sút nghiêm trọng, thất nghiệp gia tăng; khoảng cách giàu nghèo càng lớn. Những
tình huống "phát triển xấu", những nghịch lý "phản phát
triển", từ địa hạt kinh tế - tài chính đã tràn vào lĩnh vực xã hội, làm
bùng nổ các xung đột xã hội và ở không ít nơi từ tình huống kinh tế đã trở
thành tình huống chính trị với biểu tình, bãi công, làm rung chuyển cả thể chế.
Sự thật đơn giản là bản thân thị trường tự do của chủ nghĩa tư bản không thể
giúp giải quyết được những khó khăn, và trong nhiều trường hợp còn gây ra những
tổn hại nghiêm trọng cho các nước nghèo; làm sâu sắc thêm mâu thuẫn giữa lao
động và tư bản toàn cầu. Sự thật đó cũng làm phá sản những lý thuyết kinh tế
hay mô hình "đồng thuận Oasinhtơn" vốn xưa nay được coi là thời
thượng, được không ít các chính khách tư sản ca ngợi, được các chuyên gia của
họ coi là tối ưu, hợp lý.
Cùng với khủng hoảng kinh
tế - tài chính là khủng hoảng năng lượng, lương thực, sự cạn kiệt của các nguồn
tài nguyên thiên nhiên, sự suy thoái của môi trường sinh thái đang đặt ra những
thách thức vô cùng lớn cho sự tồn tại và phát triển của nhân loại. Đó là hậu
quả của một quá trình phát triển kinh tế - xã hội lấy lợi nhuận làm mục tiêu
tối thượng, coi chiếm hữu của cải và tiêu dùng vật chất ngày càng tăng làm
thước đo văn minh, lấy lợi ích cá nhân làm trụ cột của xã hội. Đó cũng chính là
những đặc trưng cốt yếu của phương thức sản xuất và tiêu dùng tư bản chủ nghĩa.
Các cuộc khủng hoảng đang diễn ra một lần nữa chứng minh tính chất phản tiến
bộ, phản nhân văn và không bền vững cả về kinh tế, xã hội và sinh thái của nó;
như Mác đã từng nói, chủ nghĩa tư bản đang huỷ hoại chính ngay những nhân tố
làm nên sự giàu có của nó là lao động và tài nguyên. Theo nhiều nhà khoa học
phân tích, các cuộc khủng hoảng hiện nay không thể giải quyết được một cách
triệt để trong khuôn khổ của chế độ tư bản chủ nghĩa.
Các phong trào phản kháng
xã hội bùng nổ mạnh mẽ tại nhiều nước tư bản phát triển trong thời gian qua
càng làm bộc lộ rõ sự thật về bản chất của các thể chế chính trị tư bản chủ
nghĩa. Thực tế là các thiết chế dân chủ theo công thức "dân chủ tự
do" mà phương Tây ra sức quảng bá, áp đặt lên toàn thế giới không hề đảm
bảo để quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân - yếu tố
bản chất nhất của dân chủ. Hệ thống quyền lực đó vẫn chủ yếu thuộc về thiểu số
giàu có và phục vụ cho lợi ích của các tập đoàn tư bản lớn. Một bộ phận rất
nhỏ, thậm chí là 1% dân số, nhưng lại chiếm giữ phần lớn của cải, tư liệu sản
xuất, kiểm soát phần lớn nguồn tài chính, tri thức và các phương tiện thông tin
đại chúng chủ yếu và do đó chi phối toàn xã hội. Sự rêu rao bình đẳng về quyền
nhưng không kèm theo sự bình đẳng về điều kiện để thực hiện các quyền đó đã dẫn
đến dân chủ vẫn chỉ là hình thức mà không thực chất. Trong đời sống chính trị,
một khi quyền lực của đồng tiền chi phối thì quyền lực của nhân dân sẽ bị lấn
át. Vì vậy mà tại các nước tư bản phát triển, các cuộc bầu cử được gọi là
"tự do" dù có thể thay đổi chính phủ nhưng không thể thay đổi các thế
lực thống trị; đằng sau hệ thống đa đảng trên thực tế vẫn là sự chuyên chế của
các tập đoàn tư bản.
Chúng ta cần một xã hội mà trong đó sự phát triển là thực sự vì con người,
chứ không phải vì lợi nhuận mà bóc lột và chà đạp lên phẩm giá con người. Chúng
ta cần sự phát triển về kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội, chứ không
phải gia tăng khoảng cách giàu nghèo và bất bình đẳng xã hội. Chúng ta cần một
xã hội hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn, một xã hội nhân ái, đoàn kết,
tương trợ lẫn nhau, chứ không phải cạnh tranh thắng - thua vì lợi ích vị kỷ của
cá nhân và các phe nhóm. Chúng ta cần sự phát triển bền vững, hài hòa với thiên
nhiên để bảo đảm môi trường sống trong lành cho các thế hệ hiện tại và tương
lai, chứ không phải để khai thác, chiếm đoạt tài nguyên, tiêu dùng vật chất vô
hạn và hủy hoại môi trường. Và chúng ta cần một hệ thống chính trị mà quyền lực
thực sự thuộc về nhân dân, do nhân dân và phục vụ lợi ích của nhân dân, chứ
không phải chỉ cho một thiểu số giàu có. Phải chăng đó chính là những giá trị
đích thực của chủ nghĩa xã hội. Đó cũng chính là mục tiêu, là con đường mà Hồ
Chí Minh, Phiđen Caxtrô và nhân dân hai nước chúng ta đã lựa chọn và đang kiên
trì, kiên định theo đuổi.
Thưa các đồng chí,
Như các đồng chí và các bạn đã biết, nhân dân Việt Nam đã trải qua một quá
trình đấu tranh cách mạng lâu dài, khó khăn, đầy gian khổ hy sinh để chống lại
ách đô hộ và sự xâm lược của thực dân, đế quốc, để bảo vệ nền độc lập dân tộc
và chủ quyền của đất nước, vì tự do, hạnh phúc của nhân dân với tinh thần
"Không có gì quý hơn Độc lập Tự do".
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là đường lối cơ bản, xuyên
suốt của cách mạng Việt Nam và cũng là điểm cốt yếu trong di sản tư tưởng của
Chủ tịch Hồ Chí Minh. Bằng kinh nghiệm thực tiễn phong phú của mình kết hợp với
lý luận cách mạng, khoa học của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, Hồ Chí Minh đã đưa ra
kết luận sâu sắc rằng, chỉ có chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản mới có thể
giải quyết triệt để vấn đề độc lập cho dân tộc, mới có thể đem lại cuộc sống tự
do, ấm no và hạnh phúc thực sự cho tất cả mọi người, cho các dân tộc.
Ngay khi mới ra đời và
trong suốt quá trình đấu tranh cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn luôn
khẳng định: chủ nghĩa xã hội là mục tiêu, lý tưởng của Đảng Cộng sản và nhân
dân Việt Nam; đi lên chủ nghĩa xã hội là yêu cầu khách quan, là con đường tất
yếu của cách mạng Việt Nam. Năm 1930, trong Cương lĩnh chính trị của mình, Đảng
Cộng sản Việt Nam đã chủ trương: "Tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân do giai cấp công nhân lãnh đạo, tiến lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn
tư bản chủ nghĩa". Vào những năm cuối thế kỷ XX, mặc dù trên thế giới chủ
nghĩa xã hội hiện thực đã bị đổ vỡ một mảng lớn, hệ thống các nước xã hội chủ
nghĩa không còn, phong trào xã hội chủ nghĩa đang trong giai đoạn khủng hoảng,
thoái trào, gặp rất nhiều khó khăn, Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn tiếp tục khẳng
định: "Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con
đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh". Mới đây, tại Đại hội toàn quốc lần thứ XI (tháng 01-2011) trong Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát
triển năm 2011), chúng tôi một lần nữa khẳng định: "Đi lên chủ nghĩa xã
hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản
Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch
sử".
Tuy nhiên, chủ nghĩa xã
hội là gì và đi lên chủ nghĩa xã hội bằng cách nào ? Đó là điều mà chúng tôi
luôn luôn trăn trở, suy nghĩ, tìm tòi, lựa chọn để từng bước hoàn thiện đường
lối, quan điểm, làm sao vừa theo đúng quy luật chung vừa phù hợp với điều kiện
cụ thể của Việt Nam.
Trong những năm tiến hành
công cuộc đổi mới, từ tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận, Đảng Cộng sản
Việt Nam từng bước nhận thức ngày càng đúng đắn hơn, sâu sắc hơn về chủ nghĩa
xã hội và thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội; từng bước khắc phục một số
quan niệm đơn giản trước đây như: đồng nhất mục tiêu cuối cùng của chủ nghĩa xã
hội với nhiệm vụ của giai đoạn trước mắt; nhấn mạnh một chiều quan hệ sản xuất,
chế độ phân phối bình quân, không thấy đầy đủ yêu cầu phát triển lực lượng sản
xuất trong thời kỳ quá độ; đồng nhất kinh tế thị trường với chủ nghĩa tư bản;
đồng nhất nhà nước pháp quyền với nhà nước tư sản...
Cho đến nay, mặc dù vẫn
còn một số vấn đề cần tiếp tục đi sâu nghiên cứu, nhưng chúng tôi đã nhận thức
rằng: Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân Việt Nam đang phấn đấu xây dựng là
một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm
chủ; có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và
quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân
tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển
toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng
và giúp đỡ nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu
nghị và hợp tác với các nước trên thế giới.
Để thực hiện được mục
tiêu đó, chúng tôi phải: Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn
với phát triển kinh tế tri thức; Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa; Xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng
con người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội;
Bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội; Thực
hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát
triển, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường và mở rộng mặt trận dân
tộc thống nhất; Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân; Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.
Càng đi vào chỉ đạo thực
tiễn, Đảng Cộng sản Việt Nam càng nhận thức được rằng, quá độ lên chủ nghĩa xã
hội là một sự nghiệp lâu dài, vô cùng khó khăn và phức tạp, vì nó phải tạo sự
biến đổi sâu sắc về chất trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Việt Nam
đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nước nông nghiệp lạc hậu, bỏ qua chế độ tư bản
chủ nghĩa, lực lượng sản xuất rất thấp, lại trải qua mấy chục năm chiến tranh,
hậu quả rất nặng nề; các thế lực thù địch thường xuyên tìm cách phá hoại cho
nên lại càng khó khăn, phức tạp, nhất thiết phải trải qua một thời kỳ quá độ
lâu dài với nhiều bước đi, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội đan xen
nhau, có sự đấu tranh giữa cái cũ và cái mới. Nói bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa là bỏ qua chế độ áp bức, bất công, bóc lột tư bản chủ nghĩa; bỏ qua những
thói hư tật xấu, những thiết chế, thể chế chính trị không phù hợp với chế độ xã
hội chủ nghĩa, chứ không phải bỏ qua cả những thành tựu, giá trị văn minh mà
nhân loại đã đạt được trong thời kỳ phát triển chủ nghĩa tư bản. Đương nhiên,
việc kế thừa những thành tựu này phải trên quan điểm phát triển, có chọn lọc.
Đưa ra quan niệm phát
triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một đột phá lý luận rất
cơ bản và sáng tạo của Đảng chúng tôi, là thành quả lý luận quan trọng qua hơn
25 năm thực hiện đường lối đổi mới, xuất phát từ thực tiễn Việt Nam và tiếp thu
có chọn lọc kinh nghiệm của thế giới. Theo nhận thức của chúng tôi, kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần,
vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã
hội chủ nghĩa. Đó là một kiểu kinh tế thị trường mới trong lịch sử phát triển
của kinh tế thị trường. Nó là một kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân theo những quy
luật của kinh tế thị trường vừa dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi
các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội, thể hiện trên cả ba mặt: sở
hữu, tổ chức quản lý và phân phối, nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh. Đây không phải là nền kinh tế thị trường tư bản
chủ nghĩa và cũng chưa phải là kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa (vì chúng
tôi còn đang trong thời kỳ quá độ).
Trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần
kinh tế. Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp
thành quan trọng của nền kinh tế, bình đẳng trước pháp luật cùng phát triển lâu
dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Trong đó, kinh tế nhà nước giữ vai trò
chủ đạo; kinh tế tập thể không ngừng được củng cố và phát triển; kinh tế tư
nhân là một trong những động lực của nền kinh tế; kinh tế hỗn hợp, đa sở hữu,
nhất là các doanh nghiệp cổ phần ngày càng phát triển; kinh tế nhà nước cùng
với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc
dân. Quan hệ phân phối bảo đảm công bằng và tạo động lực cho phát triển; thực
hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng
thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và phân phối thông qua hệ
thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội. Nhà nước quản lý nền kinh tế bằng pháp
luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách và lực lượng vật chất để định
hướng, điều tiết, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.
Một đặc trưng cơ bản, một
thuộc tính quan trọng của định hướng xã hội chủ nghĩa trong kinh tế thị trường
ở Việt Nam là phải gắn kinh tế với xã hội, thống nhất chính sách kinh tế với
chính sách xã hội, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công
bằng xã hội ngay trong từng bước, từng chính sách và trong suốt quá trình phát
triển. Điều đó có nghĩa là: không chờ đến khi kinh tế đạt tới trình độ phát
triển cao rồi mới thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, càng không "hy
sinh" tiến bộ và công bằng xã hội để chạy theo tăng trưởng kinh tế đơn
thuần. Trái lại, mỗi chính sách kinh tế đều phải hướng tới mục tiêu phát triển
xã hội; mỗi chính sách xã hội phải nhằm tạo ra động lực thúc đẩy phát triển
kinh tế; khuyến khích làm giàu hợp pháp phải đi đôi với xóa đói, giảm nghèo,
chăm sóc những người có công, những người có hoàn cảnh khó khăn. Đây là một yêu
cầu có tính nguyên tắc để đảm bảo sự phát triển lành mạnh, bền vững, theo định
hướng xã hội chủ nghĩa.
Đảng chúng tôi coi văn
hóa là nền tảng tinh thần của xã hội và xác định phát triển văn hóa đồng bộ,
tương xứng với tăng trưởng kinh tế và tiến bộ xã hội cũng là một định hướng căn
bản của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Nền văn hóa mà Việt Nam
xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, một nền văn hóa
thống nhất trong đa dạng, dựa trên các giá trị tiến bộ, nhân văn; chủ nghĩa Mác
- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần xã
hội, kế thừa và phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của tất cả các dân
tộc trong nước, tiếp thu những thành tựu, tinh hoa văn hóa nhân loại, phấn đấu
xây dựng một xã hội văn minh, lành mạnh vì lợi ích chân chính và phẩm giá con
người, với trình độ tri thức, đạo đức, thể lực, lối sống và thẩm mỹ ngày càng
cao. Chúng tôi xác định: Con người giữ vị trí trung tâm trong chiến lược phát
triển; phát triển văn hóa, xây dựng con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực
của công cuộc đổi mới; phát triển giáo dục - đào tạo và khoa học - công nghệ là
quốc sách hàng đầu; bảo vệ môi trường là một trong những vấn đề sống còn, là
tiêu chí để phát triển bền vững; xây dựng gia đình hạnh phúc, tiến bộ làm tế
bào lành mạnh, vững chắc của xã hội, thực hiện bình đẳng giới là tiêu chí của
tiến bộ, văn minh.
Xã hội xã hội chủ nghĩa
là xã hội hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn, dựa trên nền tảng lợi ích
chung của toàn xã hội, khác hẳn về chất so với các xã hội cạnh tranh để chiếm
đoạt lợi ích riêng giữa các cá nhân và phe nhóm, do đó cần và có điều kiện để
xây dựng sự đồng thuận xã hội thay vì đối lập, đối kháng xã hội. Trong chế độ
chính trị xã hội chủ nghĩa, mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân là mối
quan hệ giữa các chủ thể thống nhất về mục tiêu và lợi ích; mọi đường lối của
Đảng, chính sách pháp luật và hoạt động của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân.
Mô hình chính trị và cơ chế vận hành tổng quát là Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản
lý và nhân dân làm chủ. Dân chủ là bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa, vừa là
mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội; xây dựng nền
dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thực sự thuộc về nhân dân là một
nhiệm vụ trọng yếu, lâu dài của cách mạng Việt Nam. Chúng tôi chủ trương không
ngừng phát huy dân chủ, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thực sự
của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, trên cơ sở liên minh giữa công nhân,
nông dân và trí thức do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Nhà nước đại diện cho
quyền làm chủ của nhân dân, đồng thời là người tổ chức thực hiện đường lối của
Đảng; có cơ chế để nhân dân thực hiện quyền làm chủ trực tiếp trên các lĩnh vực
của đời sống xã hội, tham gia quản lý xã hội. Chúng tôi nhận thức rằng, nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa về bản chất khác với nhà nước pháp quyền tư
sản là ở chỗ: pháp quyền dưới chế độ tư bản chủ nghĩa về thực chất là công cụ bảo
vệ và phục vụ cho lợi ích của giai cấp tư sản, còn pháp quyền dưới chế độ xã
hội chủ nghĩa là công cụ thể hiện và thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, bảo
vệ lợi ích của đại đa số nhân dân. Thông qua thực thi pháp luật, Nhà nước bảo
đảm các điều kiện để nhân dân là chủ thể của quyền lực chính trị, thực hiện
chuyên chính với mọi hành động xâm hại lợi ích của Tổ quốc và nhân dân. Đồng
thời, chúng tôi xác định đại đoàn kết toàn dân tộc là nguồn sức mạnh và là nhân
tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp cách mạng ở
Việt Nam; không ngừng thúc đẩy sự bình đẳng và đoàn kết giữa các dân tộc, tôn
giáo.
Nhận thức sâu sắc sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản là nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc đổi mới và
bảo đảm cho đất nước phát triển theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa, chúng
tôi đặc biệt chú trọng công tác xây dựng Đảng, coi đây là nhiệm vụ then chốt,
có ý nghĩa sống còn đối với Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa. Đảng Cộng sản Việt
Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam; Đảng ra đời, tồn tại và
phát triển là vì lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả
dân tộc. Khi Đảng cầm quyền, lãnh đạo cả dân tộc, được toàn dân thừa nhận là
đội tiên phong lãnh đạo của mình và do đó Đảng là đội tiên phong của giai cấp
công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của cả dân tộc
Việt Nam. Nói như vậy không có nghĩa là hạ thấp bản chất giai cấp của Đảng, mà
là thể hiện sự nhận thức bản chất giai cấp của Đảng một cách sâu sắc hơn, đầy
đủ hơn, vì giai cấp công nhân là giai cấp có lợi ích thống nhất với lợi ích của
nhân dân lao động và toàn dân tộc. Đảng chúng tôi kiên trì lấy chủ nghĩa Mác -
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành
động cách mạng, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản. Đảng lãnh
đạo bằng cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương
lớn; bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức, kiểm tra, giám
sát và bằng hành động gương mẫu của đảng viên; thống nhất lãnh đạo công tác cán
bộ. Ý thức được nguy cơ đối với đảng cầm quyền là tham nhũng, quan liêu, thoái
hóa v.v..., nhất là trong điều kiện kinh tế thị trường, Đảng Cộng sản Việt Nam
đặt ra yêu cầu phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, đấu tranh chống chủ
nghĩa cơ hội, chủ nghĩa cá nhân, chống tham nhũng, quan liêu, lãng phí, thoái
hoá v.v... trong nội bộ Đảng và trong toàn bộ hệ thống chính trị.
Thưa các đồng chí,
Công cuộc đổi mới, trong đó có việc phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa đã thực sự đem lại những thay đổi tích cực cho đất nước
chúng tôi trong hơn 25 năm qua. Việt Nam vốn là một nước nghèo lại bị chiến
tranh tàn phá rất nặng nề, để lại những hậu quả hết sức to lớn cả về người, về
của và môi trường sinh thái. Tôi chỉ nêu thí dụ, cho đến nay vẫn có hàng triệu
người chịu các bệnh hiểm nghèo và hàng trăm nghìn trẻ em bị dị tật bẩm sinh bởi
tác động của chất độc da cam/điôxin do quân đội Mỹ sử dụng trong thời gian
chiến tranh ở Việt Nam. Theo các chuyên gia, phải mất đến hơn 100 năm nữa Việt
Nam mới có thể dọn sạch hết bom mìn còn sót lại sau chiến tranh; riêng tại tỉnh
Quảng Trị, nơi mà đồng chí Phiđen đến thăm năm 1973, vẫn có đến 45% diện tích
đất nông nghiệp còn có bom mìn sót lại. Sau chiến tranh, Mỹ và phương Tây đã áp
đặt cấm vận kinh tế với Việt Nam trong suốt gần 20 năm. Tình hình khu vực và
quốc tế cũng diễn biến phức tạp, gây nhiều bất lợi cho chúng tôi. Lương thực,
hàng hóa nhu yếu phẩm hết sức thiếu thốn, đời sống nhân dân hết sức khó khăn,
khoảng 3/4 dân số sống dưới mức nghèo khổ. Đó là một thực tế ở Việt Nam trong
thời kỳ trước đổi mới.
Nhờ thực hiện đường lối
đổi mới, nền kinh tế bắt đầu phát triển và phát triển liên tục với tốc độ tương
đối cao trong suốt 25 năm qua với mức tăng trưởng trung bình đạt 7 - 8% mỗi
năm. Thu nhập bình quân đầu người tăng gấp gần 11 lần; Việt Nam đã ra khỏi nhóm
các nước có thu nhập thấp từ năm 2008. Từ một nước bị thiếu lương thực triền
miên, đến nay Việt Nam không chỉ đã đảm bảo được an ninh lương thực mà còn trở
thành một nước xuất khẩu gạo và nhiều nông sản khác đứng hàng đầu thế giới.
Công nghiệp phát triển khá nhanh, tỉ trọng công nghiệp và dịch vụ liên tục tăng
và hiện nay chiếm khoảng 80% GDP. Xuất khẩu cũng tăng mạnh, đạt xấp xỉ 100 tỉ
USD năm 2011. Đầu tư nước ngoài tăng nhanh, đăng ký đạt gần 200 tỉ USD vào cuối
năm 2011. Về cơ cấu nền kinh tế xét trên phương diện quan hệ sở hữu, tổng sản
phẩm quốc nội của Việt Nam hiện nay gồm khoảng 34% từ kinh tế nhà nước, 5% từ
kinh tế tập thể, 31% từ kinh tế hộ, 11% từ kinh tế tư nhân trong nước và 19% từ
khu vực có vốn đầu tư nước ngoài.
Hiện dân số của Việt Nam
là hơn 86 triệu người, gồm 54 dân tộc anh em, trong đó hơn 70% số dân sống ở
nông thôn. Phát triển kinh tế đã giúp đất nước thoát khỏi tình trạng khủng
hoảng kinh tế - xã hội những năm 80 và cải thiện đáng kể đời sống của nhân dân.
Tỉ lệ người nghèo trung bình mỗi năm giảm từ 2 - 3% và cứ 10 năm giảm còn một
nửa; giảm từ 75% năm 1986 xuống còn 9,5% năm 2010. Đến nay, hầu hết các xã nông
thôn đều có đường ô tô đến trung tâm, có điện lưới quốc gia, trường tiểu học và
trung học cơ sở, trạm y tế và điện thoại. Trong khi chưa có điều kiện để đảm
bảo giáo dục miễn phí cho mọi người ở tất cả các cấp, Việt Nam tập trung hoàn
thành xóa mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học vào năm 2000 và phổ cập giáo dục
trung học cơ sở năm 2010; số sinh viên đại học, cao đẳng tăng gấp 9 lần trong
25 năm qua. Hiện nay, Việt Nam có 95% người lớn biết đọc, biết viết. Trong khi
chưa thực hiện được việc đảm bảo cung cấp dịch vụ y tế miễn phí cho toàn dân,
Việt Nam tập trung vào việc tăng cường y tế phòng ngừa, phòng chống dịch bệnh,
hỗ trợ các đối tượng có hoàn cảnh khó khăn. Nhiều dịch bệnh vốn phổ biến trước
đây đã được khống chế thành công. Người nghèo, trẻ em dưới 6 tuổi và người cao
tuổi được cấp bảo hiểm y tế miễn phí. Tỉ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ em giảm gần 3
lần; tỉ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh giảm khoảng 6 lần. Tuổi thọ trung bình của dân
cư tăng từ 62 tuổi năm 1990 lên 73 tuổi năm 2010. Cũng nhờ kinh tế có bước phát
triển nên chúng tôi đã có điều kiện để chăm sóc tốt hơn những người có công,
phụng dưỡng các Bà Mẹ Việt Nam Anh hùng, chăm lo cho phần mộ của các liệt sĩ đã
hy sinh cho Tổ quốc. Đời sống văn hoá cũng được cải thiện đáng kể; sinh hoạt
văn hóa phát triển phong phú, đa dạng. Hiện Việt Nam có khoảng 25 triệu người
sử dụng Internet, là một trong những nước có tốc độ phát triển công nghệ tin
học cao nhất thế giới. Liên hợp quốc đã công nhận Việt Nam là một trong những
nước đi đầu trong việc hiện thực hoá các Mục tiêu Thiên niên kỷ.
Như vậy, có thể nói, việc
thực hiện đường lối đổi mới đã đem lại những chuyển biến hết sức tích cực ở
Việt Nam: kinh tế phát triển, lực lượng sản xuất được tăng cường; nghèo đói
giảm nhanh, liên tục; đời sống nhân dân được cải thiện, nhiều vấn đề xã hội
được giải quyết; chính trị, xã hội ổn định, an ninh được đảm bảo; thế và lực
của quốc gia được tăng cường; niềm tin của quần chúng nhân dân vào sự lãnh đạo
của Đảng được củng cố. Tổng kết 20 năm đổi mới, Đại hội Đảng lần thứ X của
chúng tôi đã nhận định, sự nghiệp đổi mới đã giành được "những thành tựu
to lớn có ý nghĩa lịch sử". Trên thực tế, xét trên nhiều phương diện,
người dân Việt Nam ngày nay đang có các điều kiện sống tốt hơn so với bất cứ
thời kỳ nào trước đây. Đó là một trong những lý do giải thích vì sao sự nghiệp
đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo được toàn dân Việt Nam
đồng tình, hưởng ứng và tích cực phấn đấu thực hiện. Những thành tựu đổi mới
tại Việt Nam đã chứng minh rằng, phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa
không những có hiệu quả tích cực về kinh tế mà còn giải quyết được các vấn đề
xã hội tốt hơn nhiều so với các nước tư bản chủ nghĩa có cùng mức phát triển
kinh tế.
Thưa các đồng chí,
Bên cạnh những thành tựu, mặt tích cực là cơ bản, chúng tôi cũng còn không
ít khuyết điểm, hạn chế và đang phải đối mặt với những thách thức mới trong quá
trình phát triển đất nước.
Về kinh tế, chất lượng
tăng trưởng còn thấp, thiếu bền vững; hạ tầng cơ sở thiếu đồng bộ; hiệu quả và
năng lực của nhiều doanh nghiệp, trong đó có doanh nghiệp nhà nước còn hạn chế;
môi trường bị ô nhiễm tại nhiều nơi; công tác quản lý, điều tiết thị trường còn
nhiều bất cập. Trong khi đó, sự cạnh tranh đang diễn ra ngày càng quyết liệt
trong quá trình toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế.
Về xã hội, khoảng cách
giàu nghèo gia tăng; chất lượng giáo dục, chăm sóc y tế và nhiều dịch vụ công
ích khác còn nhiều hạn chế; văn hoá, đạo đức xã hội có mặt xuống cấp; tội phạm
và các tệ nạn xã hội diễn biến phức tạp. Đặc biệt, hiện tượng tham nhũng, lãng
phí, sa sút về tư tưởng chính trị và đạo đức, lối sống có xu hướng lan rộng
trong không ít cán bộ, đảng viên. Điều không thể không nhắc đến là các thế lực
thù địch luôn tìm mọi thủ đoạn để can thiệp, chống phá, gây mất ổn định, thực
hiện âm mưu "diễn biến hoà bình" nhằm xoá bỏ chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam.
Chúng tôi nhận thức rằng,
hiện nay Việt Nam đang trong quá trình xây dựng, quá độ lên chủ nghĩa xã hội,
hướng tới chủ nghĩa xã hội. Trong thời kỳ quá độ, các nhân tố xã hội chủ nghĩa
được hình thành, xác lập và phát triển đan xen, cạnh tranh với các nhân tố phi
xã hội chủ nghĩa, gồm cả các nhân tố tư bản chủ nghĩa trên một số lĩnh vực. Sự
đan xen, cạnh tranh này càng phức tạp và quyết liệt trong điều kiện cơ chế thị
trường và mở cửa, hội nhập quốc tế. Bên cạnh các mặt thành tựu, tích cực, sẽ luôn
có những mặt tiêu cực, thách thức cần được xem xét một cách tỉnh táo và xử lý
một cách kịp thời, hiệu quả. Đó là cuộc đấu tranh rất gay go, gian khổ, đòi hỏi
phải có tầm nhìn mới, bản lĩnh mới và sức sáng tạo mới. Đi lên theo định hướng
xã hội chủ nghĩa là một quá trình không ngừng củng cố, tăng cường các nhân tố
xã hội chủ nghĩa để các nhân tố đó ngày càng chi phối, áp đảo và tiến tới không
thể đảo ngược được. Thành công hay thất bại là phụ thuộc trước hết vào sự đúng
đắn của đường lối, bản lĩnh chính trị, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
Đảng.
Hiện nay, chúng tôi đang
đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng chú trọng hơn
chất lượng và tăng tính bền vững với các khâu đột phá là phát triển hạ tầng cơ
sở, phát triển nguồn nhân lực và cải cách hành chính. Về xã hội, chúng tôi tiếp
tục đẩy mạnh công tác giảm nghèo bền vững, nâng cao chất lượng y tế, giáo dục
và các dịch vụ công ích khác, nâng cao hơn nữa đời sống văn hoá cho nhân dân.
Toàn Đảng, toàn dân và toàn quân đang ra sức học tập và làm theo tấm gương đạo
đức Hồ Chí Minh. Vừa qua, Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã
ra Nghị quyết "Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay" với
quyết tâm ngăn chặn và đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo
đức, lối sống của một bộ phận cán bộ đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo,
quản lý các cấp, thực hiện tốt hơn nữa các nguyên tắc tổ chức xây dựng Đảng,
nhằm làm cho tổ chức đảng và bộ máy nhà nước ngày càng trong sạch, vững mạnh,
giữ vững bản chất cách mạng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
Đảng.
Cả lý luận và thực tiễn
đều cho thấy, xây dựng chủ nghĩa xã hội là kiến tạo một kiểu xã hội mới về
chất, hoàn toàn không hề đơn giản, dễ dàng. Đây là cả một sự nghiệp sáng tạo vĩ
đại, đầy thử thách, khó khăn, một sự nghiệp tự giác, liên tục, hướng đích lâu
dài. Vì vậy, bên cạnh việc bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng, phải phát huy
mạnh mẽ vai trò sáng tạo, sự ủng hộ và tham gia tích cực của nhân dân. Nhân dân
tiếp nhận, ủng hộ và nhiệt tình tham gia thực hiện đường lối của Đảng vì thấy
nó đáp ứng đúng yêu cầu, nguyện vọng của mình. Sức mạnh nhân dân là cội nguồn
sâu xa của thắng lợi, của phát triển.
Mặt khác, Đảng lãnh đạo
và cầm quyền, trong khi xác định phương hướng chính trị và đề ra quyết sách
không thể chỉ xuất phát từ thực tiễn của đất nước và dân tộc mình mà còn phải
từ thực tiễn thế giới và thời đại. Trong thế giới toàn cầu hoá như hiện nay,
phát triển của mỗi quốc gia - dân tộc không thể biệt lập, ở bên ngoài những tác
động của thế giới và thời đại, của thời cuộc và cục diện của nó. Chính vì vậy,
chúng tôi chủ trương phải chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, thực hiện
đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát triển, đa phương
hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế trên cơ sở tôn trọng độc lập chủ quyền,
toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng,
cùng có lợi.
Và điều hết sức quan
trọng là phải luôn luôn kiên định và đứng vững trên nền tảng tư tưởng lý luận
của chủ nghĩa Mác - Lênin - học thuyết khoa học và cách mạng của giai cấp công
nhân và quần chúng lao động. Tính khoa học và cách mạng triệt để của chủ nghĩa
Mác - Lênin là những giá trị bền vững, đã và đang được những người cách mạng
theo đuổi và thực hiện. Nó sẽ còn tiếp tục phát triển và có sức sống trong thực
tiễn cách mạng cũng như trong thực tiễn phát triển của khoa học. Chúng ta cần
tiếp thu, bổ sung một cách có chọn lọc trên tinh thần phê phán và sáng tạo
những thành tựu mới nhất về tư tưởng và khoa học để chủ nghĩa, học thuyết của
chúng ta luôn luôn tươi mới, luôn luôn được tiếp thêm sinh lực mới, mang hơi
thở của thời đại, không rơi vào xơ cứng, trì trệ, lạc hậu so với cuộc sống.
Thưa các đồng chí và các bạn,
Trên đây tôi đã giới thiệu vắn tắt với các đồng chí và các bạn một số vấn
đề về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội từ thực tiễn công
cuộc đổi mới ở Việt Nam để các đồng chí tham khảo. Chúng tôi ý thức được rằng,
đây là công việc vô cùng phức tạp đối với chúng tôi, là công việc chưa có tiền
lệ, phải vừa làm vừa mò mẫm, rút kinh nghiệm; vừa qua mới chỉ là những bước đi
ban đầu, còn rất hạn chế. Rất mong được các đồng chí góp ý. Vả lại, chúng ta
đều biết, mục tiêu của chủ nghĩa xã hội có thể giống nhau nhưng biện pháp, cách
đi đến các mục tiêu đó có thể rất đa dạng, phụ thuộc vào điều kiện cụ thể của
mỗi nước. Đó là cả một không gian sáng tạo to lớn, đầy sức sống.
Sau khi chủ nghĩa xã hội sụp đổ ở Liên Xô và Đông Âu, một số nhà tư tưởng
phương Tây đã tuyên bố về "sự cáo chung của lịch sử". Nhiều chính
khách và phần tử cơ hội đã dự báo về sự sụp đổ tiếp theo của các nước xã hội
chủ nghĩa còn lại trên thế giới. Nhưng lịch sử đã không diễn ra như họ nghĩ.
Trung Quốc, Việt Nam, Lào,…đang đổi mới thành công, giành được nhiều thành tựu
và tiếp tục vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội. Cuba vẫn hiên ngang đứng vững,
vẫn là tấm gương sáng về tiến bộ và công bằng xã hội, về đoàn kết quốc tế, về
tinh thần bất khuất vì tự do cho các dân tộc và phẩm giá con người. Và những
bước tiến cách mạng đang diễn ra ở Vênêxuêla, Bôlivia, Êcuađo... cùng sự lớn
mạnh của các phong trào cánh tả tại nhiều nước Mỹ Latinh khác thể hiện trào lưu
hướng tới chủ nghĩa xã hội đang nổi lên mạnh mẽ tại Tây Bán cầu này. Các nước
xã hội chủ nghĩa khác tại Châu Á vẫn tiếp tục con đường tiến lên phía trước.
Nhiều đảng cánh tả, các phong trào nhân dân tiến bộ các nước tại các châu lục
ngày càng giương cao khẩu hiệu đấu tranh vì chủ nghĩa xã hội và xác định ngày
càng rõ rằng đây là sự lựa chọn duy nhất đúng để vượt qua những bế tắc của mô
hình phát triển đang khủng hoảng hiện nay. Đó là những bằng chứng đầy khích lệ
về sức sống của chủ nghĩa xã hội.
Thưa các đồng chí,
Chúng tôi rất vui mừng được biết, Đảng Cộng sản Cuba tại Đại hội VI (tháng
4-2011) và Hội nghị toàn quốc của Đảng (tháng 01-2012) vừa qua, đã có những
quyết sách chiến lược quan trọng để tạo động lực mới phát triển kinh tế, cải
thiện đời sống nhân dân và tăng cường công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Chúng
tôi tin tưởng sâu sắc rằng, nhân dân Cuba dũng cảm, anh hùng trong chiến đấu,
bảo vệ Tổ quốc, sáng tạo và năng động trong xây dựng đất nước nhất định sẽ đạt
được những thành tựu to lớn, đưa Cuba vượt qua những khó khăn trên con đường
phát triển, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở Cuba. Chúng tôi mong muốn,
hai Đảng và hai nước chúng ta sẽ tiếp tục cùng sát cánh bên nhau vững bước trên
con đường vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Đó cũng là niềm tin và
tình cảm của chúng tôi gửi tới các đồng chí./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét