7 tháng 3, 2013

Thảo luận lần 2 môn Đường lối

Câu 1.           Những vấn đề chung về nguồn lực kinh tế.
- KHÁI NIỆM 
Nguồn lực là tổng thể vị trí địa lí, các nguồn tài nguyên thiên nhiên, hệ thống tài sản quốc gia, nguồn nhân lực, đường lối chính sách, vốn và thị trường... ở cả trong nước và nước ngoài có thể được khai thác nhằm phục vụ cho việc phát triển kinh tế của một lãnh thổ nhất định. 
Nguồn lực không phải là bất biến. Nó thay đổi theo không gian và thời gian. Con người có thể làm thay đổi nguồn lực theo hướng có lợi cho mình. 
II - PHÂN LOẠI NGUỒN LỰC 
1.    Căn cứ vào nguồn gốc
2.    Căn cứ vào phạm vi lãnh thổ 
Căn cứ vào phạm vi lãnh thổ, có thể phân chia nguồn lực thành hai loại:
a)   Nguồn lực trong nước 
Nguồn lực trong nước (còn gọi là nội lực) bao gồm các nguồn lực tự nhiên, nhân văn, hệ thống tài sản quốc gia, đường lối chính sách đang được khai thác, 
Nguồn lực trong nước đóng vai trò quan trọng, có tính chất quyết định trong việc phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. 
b)   Nguồn lực nước ngoài 
Nguồn lực nước ngoài (còn gọi là ngoại lực) bao gồm khoa học - kỹ thuật và công nghệ, nguồn vốn, kinh nghiệm về tổ chức và quản lý sản xuất và kinh doanh... từ nước ngoài. 
Nguồn lực nước ngoài có vai trò quan trọng, thậm chí đặc biệt quan trọng đối với nhiều quốc gia đang phát triển ở những giai đoạn lịch sử cụ thể. 
Mặc dù có vai trò khác nhau, nhưng giữa nguồn lực trong nước và nguồn lực nước ngoài có mối quan hệ mật thiết với nhau. Đây là mối quan hệ hỗ trợ, hợp tác, bổ sung cho nhau trên nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi và tôn trọng độc lập chủ quyền của nhau. Xu thế chung là các quốc gia cố gắng kết hợp nguồn lực trong nước (nội lực) với nguồn lực nước ngoài (ngoại lực) thành sức mạnh tổng hợp để phát triển kinh tế nhanh và bền vững. 
III - VAI TRÒ CỦA NGUỒN LỰC ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ 
Nguồn lực có vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế và xã hội của mỗi quốc gia.
- Vị trí địa lí tạo thuận lợi hay gây khó khăn trong việc trao đổi, tiếp cận hay cùng phát triển giữa các vùng trong một nước, giữa các quốc gia với nhau. Trong xu thế hội nhập của nền kinh tế thế giới, vị trí địa lí là một nguồn lực góp phần định hướng có lợi nhất trong phân công lao động quốc tế
- Nguồn lực tự nhiên là cơ sở tự nhiên của quá trình sản xuất. Đó là những nguồn vật chất vừa phục vụ trực tiếp cho cuộc sống, vừa phục vụ cho phát triển kinh tế. Sự giàu có và đa dạng về tài nguyên thiên nhiên tạo lợi thế quan trọng cho sự phát triển
- Nguồn lực kinh tế - xã hội, nhất là dân cư và nguồn lao động, nguồn vốn, khoa học - kỹ thuật và công nghệ, chính sách toàn cầu hoá, khu vực hoá và hợp tác, có vai trò quan trọng để lựa chọn chiến lược phát triển phù hợp với điều kiện cụ thể của đất nước trong từng giai đoạn
Hiểu biết và đánh giá đúng cũng như biết huy động tối đa các nguồn lực sẽ thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế ở mỗi quốc gia. Các nước đang phát triển muốn nhanh chóng thoát khỏi sự nghèo nàn, tụt hậu cần phải phát hiện và sử dụng hợp lí, có hiệu quả các nguồn lực sẵn có trong nước, đồng thời tranh thủ các nguồn lực từ bên ngoài, nhất là các nước phát triển.
Các nguồn lực chính để phát triển kinh tế - xã hội
1.    Vị trí địa lí
Lãnh thổ Việt Nam bao gồm hai bộ phận: phần đất liền ( diện tích 330.991 km2) và phần biển rộng lớn gấp nhiều lần so với phần đất liền.
a) Việt Nam nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa. Đặc điểm đó đã làm cho thiên nhiên nước ta khác hẳn với các nước có cùng vĩ độ ở Tây Á, Đông Phi, Tây Phi và tác động sâu sắc tới các hoạt động kinh tế.
b) Việt Nam nằm ở phía Đông bán đảo Đông Dương, gần trung tâm Đông Nam Á, có một vùng biển rộng lớn giàu tiềm năng. Vị trí tiếp giáp trên đất liền và trên biển làm cho nước ta có thể dễ dàng giao lưu về kinh tế và văn hoá với nhiều nước trên thế giới.
c) Việt Nam nằm ở khu vực đang diễn ra những hoạt động kinh tế sôi động của thế giới. Nền kinh tế của các nước trong khu vực đứng đầu là Xingapo, sau đó là Malaixia, Thái Lan, Inđônêxia có nhiều chuyển biến đáng kể và ngày càng chiếm vị trí cao hơn trong nền kinh tế toàn cầu cũng như ở châu Á - Thái Bình Dương. Trong nhiều năm liên tục trước cuộc khủng hoảng tài chính diễn ra vào nửa sau thập kỷ 90, tốc độ tăng trưởng kinh tế của các nước trong khu vực đạt khá cao. Vị thế của ASEAN ngày càng được khẳng định.
2. Tài nguyên thiên nhiên
a) Nước ta có sự đa dạng về tài nguyên thiên nhiên. Ở trình độ phát triển kinh tế như hiện nay, tài nguyên đất giữ vị trí quan trọng. Việt Nam có khoảng 8,0 triệu ha đất nông nghiệp, bao gồm đất ở đồng bằng, ở các bồn địa giữa núi, ở đồi núi thấp và các cao nguyên.
Nguồn nhiệt ẩm lớn, tiềm năng nước dồi dào, số lượng các giống loài động, thực vật biển và trên cạn khá phong phú, nguồn khoáng sản đa dạng v.v... là những thuận lợi mà thiên nhiên đã dành cho chúng ta.
Tuy nhiên, nước ta cũng có nhiều tai biến do thiên nhiên gây ra như bão, lũ lụt, hạn hán v.v... Gần như không năm nào không có thiên tai gây ra những tổn thất nhất định cho nền kinh tế và cho đời sống nhân dân ở vùng này hay vùng khác.
Khoáng sản là một loại tài nguyên thiên nhiên có ý nghĩa đặc biệt đối với việc phát triển kinh tế - xã hội. nhìn chung, ở nước ta nhiều loại khoáng sản phân tán theo không gian và phân bố không đều về trữ lượng. Một số khoáng sản với trữ lượng đáng kể như: boxit, vật liệu xây dựng, dầu khí, sắt v.v... tuy mới được khai thác bước đầu nhưng đã tỏ ra có hiệu quả.
Việc khai thác và sử dụng các nguồn lực về tài nguyên thiên nhiên có quan hệ mật thiết với trình độ phát triển của khoa học - kỹ thuật và công nghệ, cũng như phụ thuộc nhiều vào vốn đầu tư.
Trên một đơn vị diện tích, số lượng tài nguyên nhiều, trữ lượng nhỏ lại phân tán như trong điều kiện hiện nay, có thể là một khó khăn. Song nếu áp dụng công nghệ khai thác tài nguyên tiên tiến trên quan điểm kinh tế tổng hợp, thì mức độ tập trung tài nguyên như đã nêu ở trên lại có thể coi là một thế mạnh.
Cho đến gần đây, những hậu quả của chiến tranh để lại và nhất là việc khai thác không hợp lý tài nguyên ở nước ta đã dẫn đến tình trạng nhiều loại bị suy giảm nghiêm trọng.
b) Thực trạng khai thác tài nguyên ở Việt Nam rất khác nhau. Trong khi tài nguyên biển chưa sử dụng được bao nhiêu thì nhiều loại tài nguyên khác lại bị khai thác quá mức.
Tài nguyên rừng bị tàn phá nghiêm trọng nhất. Hiện nay, độ che phủ của rừng đang ở mức báo động. Rừng chỉ còn chiếm 32% diện tích cả nước (1999). Đất đai nhiều vùng bị sói mòn, diện tích đất trồng, đồi trọc tăng lên đáng kể. Nhiều hệ sinh thái rừng, nhất là ở khu vực ven biển, đầu nguồn và cửa sông bị phá hoại nặng nề. Nguồn gen động vật, thực vật bị giảm sút mạnh.
Sự suy giảm tài nguyên thiên nhiên trước hết là hậu quả trực tiếp của việc khai thác bừa bãi, không theo một chiến lược nhất định. Sau nữa là trình độ công nghệ khai thác của nước ta còn lạc hậu. Vì thế, tài nguyên bị lãng phí mà chi phí khai thác lại cao.
c)   Tài nguyên thiên nhiên là một trong những nguồn lực cơ bản trong việc xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội. Do đó, vấn đề sử dụng hợp lí đi đôi với việc bảo về và tái tạo tài nguyên thiên nhiên đang được đặt ra nhằm đảm bảo những điều kiện tốt nhất cho sự phát triển bền vững của Việt Nam hiện tại và trong tương lai.
dân cư và nguồn lao động
1.    Việt Nam là một nước đông dân, có nhiều thành phần dân tộc
Theo số liệu Tổng điều tra dân số ngày 1 - 4 - 1999, dân số nước ta là 76.327.900 người. Về dân số, nước ta đứng hàng thứ hai ở khu vực Đông Nam Á và hàng thứ 13 trong tổng số hơn 200 quốc gia và lãnh thổ trên thế giới.
Dân số là một nguồn lực quan trọng để phát triển nền kinh tế. Với số dân đông, nước ta có nguồn lao động dồi dào, thị trường tiêu thụ rộng lớn. Song trong điều kiện nước ta hiện nay, dân số đông là một trở ngại lớn cho việc phát triển kinh tế và nâng cao đời sống của nhân dân.
Nước ta có 54 thành phần dân tộc, đoàn kết trong quá trình dựng nước và giữ nước. Hiện nay trình độ phát triển kinh tế - xã hội giữa các thành phần dân tộc ở nước ta vẫn còn có sự chênh lệch. Vì vậy, phải chú trọng hơn nữa đển việc phát triển kinh tế - xã hội ở các vùng dân tộc ít người.
2.    Dân số nước ta tăng nhanh
Dân số tăng quá nhanh dẫn đến sự bùng nổ dân số. Điều đó xảy ra ở nước ta từ cuối những năm 50 của thế kú XX. Tuy nhiên, ở từng vùng lãnh thổ, từng thành phần dân tộc, mức bùng nổ dân số có sự khác nhau. Trên phạm vi toàn quốc, dân số nước ta đã tăng gấp đôi từ 30 lên 60 triệu người trong vòng 25 năm (1960 - 1985).
Nhịp độ gia tăng dân số cũng biến đổi qua các thời kì.
Trong thời kì 1931 - 1960, tốc độ gia tăng trung bình năm là 1,85%. Dân số tăng nhanh vào những năm 1965 - 1975 với mức tăng trung bình năm trên 3%. Giữa hai đợt tổng điều tra dân số lần thứ nhất và lần thứ hai (1979 và 1989), mức tăng trung bình năm giảm xuống còn 2,1% và giữa hai cuộc tổng điều tra dân số gần đây nhất (1989 và 1999) là 1,7%.
Hiện nay, do kết quả của việc thực hiện chính sách dân số và kế hoạch hoá gia đình, nhịp độ tăng dân số ở nước ta đang có xu hướng giảm xuống, tuy còn chậm. Mặc dù tỉ lệ sinh có giảm, song số dân nước ta trong thời kì 1979 - 1989 vẫn tăng thêm 11,7 triệu người, tương đương với số dân của một nước trung bình trên thế giới.
Trong thời kì 1989 - 1999, số dân tăng thêm 11,9 triệu người, tỉ lệ gia tăng dân số trung bình năm tuy có giảm (1,7%) nhưng vẫn cao hơn một chút so với mức gia tăng tự nhiên của toàn thế giới.
Sự gia tăng dân số quá nhanh đã tạo nên sức ép rất lớn đối với việc phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và nâng cao chất lượng cuộc sống của từng thành viên trong xã hội.
3.    Dân số nước ta thuộc loại trẻ
Cơ cấu các nhóm tuổi trong tổng số dân (1 - 4 - 1999) của nước ta là:
+ Dưới độ tuổi lao động: 33,1%
+ Trong độ tuổi lao động: 59,3%
+ Ngoài độ tuổi lao động: 7,6%
Do dân số trẻ nên lực lượng lao động của nước ta chiếm khoảng 50% tổng số dân. Hàng năm xã hội có thêm khoảng 1,1 triệu lao động mới. Điều đó gây nên những khó khăn về sắp xếp việc làm cho số lao động gia tăng. Tuy nhiên lực lượng lao động của Việt Nam có khả năng tiếp thu nhanh các kỹ thuật và công nghệ tiên tiến. Nếu được đào tạo và sử dụng hợp lí, họ sẽ trở thành nguồn lực quyết định để xây dựng đất nước.
4.    Dân cư và nguồn lao động nước ta phân bố không đều
Điều đó phụ thuộc vào lịch sử định cư, trình độ phát triển kinh tế -xã hội, mức độ màu mỡ của đất đai, sự phong phú của nguồn nước v.v... Tính chất không đồng đều này thể hiện rõ rệt giữa các vùng và ngay trong nội bộ từng vùng lãnh thổ.
Khoảng 80% số dân tập trung ở vùng đồng bằng và ven biển với mật độ dân số rất cao (đồng bằng sông Hồng 1180 người/km2 - 1999). Ở trung du và miền núi, dân cư thưa thớt hơn nhiều (Tây Nguyên là 67 người/km2, Tây Bắc là 62 người/km2).
Sự phân bố dân cư không đều còn thể hiện giữa thành thị và nông thôn. 76,5% số dân sinh sống ở nông thôn, còn ở thành thị chiếm 23,5% (số liệu năm 1999)
Tình hình phân bố dân cư như vậy gây ra những khó khăn cho việc sử dụng hợp lí nguồn lao động và việc khai thác nguồn tài nguyên hiện có ở mỗi vùng.
5.    Để giảm bớt gánh nặng dân số, cần phải có chiến lược phát triển dân số hợp lí và sử dụng có hiệu quả nguồn lao động của nước ta
Trước mắt, cần có những biện pháp hữu hiệu nhằm giảm nhanh tỉ lệ sinh, đồng thời từng bước phân bố lại dân cư, lao động giữa các vùng và giữa các ngành kinh tế trong phạm vi cả nước.



Câu 2.           Nguồn lực lao động và thực trạng, giải pháp đối với nguồn lực lao động hiện nay ở nước ta.
Việt Nam  được thế giới đánh giá là có lợi thế về dân số đông, đang trong thời kỳ “dân số vàng” nên lực lượng trong độ tuổi lao động khá dồi dào. Đây là nguồn lực vô cùng quan trọng để đất nước ta thực hiện thành công Chiến lược phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 2011-2020 đã được Đại hội Đảng XI thông qua ngày 16/2/2011. Tuy nhiên, chất lượng nguồn nhân lực của Việt Nam vẫn còn thấp và cần phải được cải thiện càng sớm càng tốt.
1. Thực trạng nguồn nhân lực Việt Nam.
Theo kết quả điều tra dân số đến tháng 12/2010, Việt Nam có gần 87 triệu người. Điều này phản ánh nguồn nhân lực của Việt Nam đang phát triển dồi dào. Nguồn nhân lực Việt Nam được cấu thành chủ yếu là nông dân, công nhân, trí thức, doanh nhân, dịch vụ và nhân lực của các ngành, nghề. Trong đó, nguồn nhân lực nông dân có gần 62 triệu người, chiếm hơn 70% dân số; nguồn nhân lực công nhân là 9,5 triệu người (gần 10% dân số); nguồn nhân lực trí thức, tốt nghiệp từ đại học, cao đẳng trở lên là hơn 2,5 triệu người, chiếm khoảng 2,15% dân số; nguồn nhân lực từ các doanh nghiệp khoảng 2 triệu người, trong đó, khối doanh nghiệp trung ương gần 1 triệu người…. Sự xuất hiện của giới doanh nghiệp trẻ được xem như một nhân tố mới trong nguồn nhân lực, nếu biết khai thác, bồi dưỡng, sử dụng tốt sẽ giải quyết được nhiều vấn đề quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội. 
Hiện nay ở Việt Nam đang hình thành 2 loại hình nhân lực: nhân lực phổ thông và nhân lực chất lượng cao. Nhân lực phổ thông hiện tại vẫn chiếm số đông, trong khi đó, tỷ lệ nhân lực chất lượng cao lại chiếm tỷ lệ rất thấp. Cái thiếu của Việt Nam hiện nay không phải là nhân lực phổ thông, mà là nhân lực chất lượng cao. Theo số liệu thống kê năm 2010, trong số 20,1 triệu lao động đã qua đào tạo trên tổng số 48,8 triệu lao động đang làm việc, thì chỉ có 8,4 triệu người có bằng cấp, chứng chỉ do các cơ sở đào tạo trong và ngoài nước. Số người từ 15 tuổi trở lên được đào tạo nghề và chuyên môn kỹ thuật rất thấp, chiếm khoảng 40%. Cơ cấu đào tạo hiện còn bất hợp lý được thể hiện qua các tỷ lệ: Đại học và trên Đại học là 1, trung học chuyên nghiệp là 1,3 và công nhân kỹ thuật là 0,92; trong khi trên thế giới, tỷ lệ này là 1-4-10. Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới  (WB), Việt Nam đang rất thiếu lao động có trình độ tay nghề, công nhân kỹ thuật bậc cao và chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam cũng thấp hơn so với nhiều nước khác. Nếu lấy thang điểm là 10 thì chất lượng nhân lực của Việt Nam chỉ đạt 3,79 điểm (xếp thứ 11/12 nước Châu Á tham gia xếp hạng của WB) trong khi Hàn Quốc là 6,91; Ấn Độ là 5,76; Malaysia là 5,59; Thái Lan là 4,94...
Cơ cấu phân bổ lao động theo ngành nghề cũng mất cân đối. Các ngành kỹ thuật - công nghệ, nông - lâm - ngư nghiệp ít và chiếm tỉ trọng thấp, trong khi đó các ngành xã hội luật, kinh tế, ngoại ngữ... lại quá cao. Nhiều ngành nghề, lĩnh vực có tình trạng vừa thừa vừa thiếu nhân lực. Những lĩnh vực hiện đang thiếu lao động như: Kinh doanh tài chính, ngân hàng, kiểm toán, công nghệ thông tin, điện tử, viễn thông, cơ khí chế tạo...
Có thể thấy, nguồn nhân lực Việt Nam hiện nay có các đặc điểm sau:
- Nguồn nhân lực khá dồi dào, nhưng chưa được sự quan tâm đúng mức; chưa được quy hoạch, khai thác; chưa được nâng cấp; chưa được đào tạo đến nơi đến chốn.
- Chất lượng nguồn nhân lực chưa cao, dẫn đến tình trạng mâu thuẫn giữa lượng và chất.
- Sự kết hợp, bổ sung, đan xen giữa nguồn nhân lực từ nông dân, công nhân, trí thức,… chưa tốt, còn chia cắt, thiếu sự cộng lực để cùng phối hợp thực hiện sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Báo chí nước ngoài thường bình luận người Việt Nam thông minh, rất nhanh nhạy trong việc nắm bắt và tiếp thu cái mới. Tiếc rằng nguồn nhân lực này lại chưa được khai thác đầy đủ, đào tạo chưa bài bản, điều đó ảnh hưởng đến chất lượng nhân lực và ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế – xã hội Việt Nam.
Theo các chuyên gia, để phát triển nguồn nhân lực ở Việt Nam trước mắt và lâu dài cần phải tính đến yếu tố chất lượng sinh đẻ và yếu tố bồi dưỡng sức dân. Không thể nói đến phát triển nguồn nhân lực khi sinh ra những đứa trẻ còi cọc, ốm yếu. Không thể nói đến phát triển nguồn nhân lực khi sức dân không được bồi dưỡng. Vấn đề này liên quan đến hàng loạt các yếu tố khác như chính sách xã hội, chính sách y tế, chính sách tiền lương, chính sách xây dựng cơ sở hạ tầng…. Các vấn đề này hiện vẫn chưa được giải quyết một cách cơ bản. Không thể nói đến nhân lực chất lượng cao khi chất lượng giáo dục đại học còn thấp; kết cấu hạ tầng còn rất thấp kém; tỷ lệ lao động mới qua đào tạo mới chỉ có từ 30 đến 40%; trình độ ngoại ngữ, khả năng sử dụng máy tính, công nghệ thông tin kém….
2. Một số giải pháp phát triển nguồn nhân lực Việt Nam:
Từ thực tiễn trong nước và kinh nghiệm của thế giới có thể thấy rằng, việc xây dựng và phát triển nguồn nhân lực phù hợp với điều kiện thực tế của nước ta có ý nghĩa hết sức quan trọng và cũng là yêu cầu bức thiết hiện nay. Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 2011-2020 cũng nêu rõ cần tập trung tạo đột phá “phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, tập trung vào việc đổi mới căn bản nền giáo dục quốc dân, gắn kết chặt chẽ phát triển nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ”. Để xây dựng đội ngũ nhân lực có chất lượng cao, Việt Nam cần thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp: 
Thứ nhất: xây dựng chiến lược phát triển nguồn nhân lực gắn với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập kinh tế quốc tế. Ngày 19/4/2011, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 579/QĐ-TTg Phê duyệt Chiến lược phát triển nhân lực Việt Nam thời kỳ 2011 - 2020 trong đó nêu rõ mỗi bộ, ngành và địa phương phải xây dựng quy hoạch phát triển nhân lực đồng bộ với chiến lược, kế hoạch phát triển chung của mình. Vấn đề hiện nay là cần hiện thực hóa Chiến lược bằng các biện pháp, hành động cụ thể. Kinh nghiệm của nhiều nước cho thấy rõ, coi trọng và quyết tâm thực thi chính sách giáo dục - đào tạo phù hợp là nhân tố quyết định tạo ra nguồn nhân lực chất lượng cao cho sự phát triển nhanh và bền vững.
Thứ hai, song song với việc phát hiện, bồi dưỡng và trọng dụng nhân tài, phát triển nguồn nhân lực cần đi đôi với xây dựng và hoàn thiện hệ thống giá trị của con người trong thời đại hiện nay như trách nhiệm công dân, tinh thần học tập, trau dồi tri thức; có ý thức và năng lực làm chủ bản thân, làm chủ xã hội; sống có nghĩa tình, có văn hóa, có lý tưởng. Đây cũng là những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, rất cần được tiếp tục phát huy trong bối cảnh hội nhập quốc tế, nhất là đối với thế hệ trẻ.
Thứ ba, phát triển nguồn nhân lực phải gắn với nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe người dân, chính sách lương - thưởng, bảo đảm an sinh xã hội. Đại hội XI đã đề cập tới việc cụ thể hóa những hoạt động của lĩnh vực này nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả chăm sóc sức khỏe nhân dân, đáp ứng yêu cầu của quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với kinh tế tri thức trong bối cảnh hội nhập, cạnh tranh gay gắt và yêu cầu cường độ lao động cao.
Thứ tư, cải thiện và tăng cường thông tin về các nguồn nhân lực theo hướng rộng rãi và dân chủ, làm cho mọi người thấy được tầm quan trọng của vấn đề phát triển nguồn nhân lực ở nước ta và trên thế giới
Thứ năm, cần có sự nghiên cứu, tổng kết thường kỳ về nguồn nhân lực Việt Nam.
Thứ sáu, cần đổi mới tư duy, có cái nhìn mới về con người, nguồn nhân lực Việt Nam./.  



Câu 3.           Các xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nước ta
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá (CNH,HĐH) đã được Đảng và Nhà nước ta xác định là con đường tất yếu để Việt Nam nhanh thoát khỏi tình trạng lạc hậu, chậm phát triển trở thành một quốc gia văn minh, hiện đại.
Nội dung và yêu cầu cơ bản của chuyển dịch cơ cấu kinh tế (CCKT) ở nước ta theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá là tăng nhanh tỷ trọng giá trị trong GDP của các ngành công nghiệp, xây dựng (gọi chung là công nghiệp) và thương mại – dịch vụ (gọi chung là dịch vụ), đồng thời giảm dần tương đối tỷ trọng giá trị trong GDP của các ngành nông nghiệp, lâm nghiệp và ngư nghiệp (gọi chung là nông nghiệp). Cùng với quá trình chuyển dịch của cơ cấu kinh tế tất yếu sẽ dẫn đến những biến đổi kinh tế và xã hội theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá của cơ cấu các vùng kinh tế, các thành phần kinh tế, các lực lượng lao động xã hội, cơ cấu kinh tế đối nội, cơ cấu kinh tế đối ngoại…
1. Cơ cấu kinh đang chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá
Thực hiện định hướng cơ bản trên đây của Đảng và Nhà nước về chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, sau hơn 20 năm đổi mới, chúng ta đã đạt được những kết quả nổi bật sau đây.
Về cơ cấu ngành kinh tế, cùng với tốc độ tăng cao liên tục và khá ổn định của GDP, cơ cấu ngành kinh tế đã có sự thay đổi đáng kể theo hướng tích cực. Đó là tỷ trọng trong GDP của ngành nông nghiệp đã giảm nhanh từ 38,1% năm 1990 xuống 27,2% năm 1995; 24,5% năm 2000; 20,9% năm 2005, và đến năm 2008 ước còn 20,6%. Tỷ trọng công nghiệp trong GDP đã tăng nhanh, năm 1990 là 22,7%; năm 1995 tăng lên 28,8%; năm 2000: 36,7%; năm 2005: 41% và đến năm 2008 ước tính sẽ tăng đến 41,6%. Tỷ trọng dịch vụ trong GDP chưa biến động nhiều, năm 1990 là 38,6%; năm 1995: 44,0%; năm 2000: 38,7%; năm 2005: 38,1%; năm 2008 sẽ là khoảng 38,7%.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế đã làm thay đổi cơ cấu lao động nước ta theo xu hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Số lao động trong các ngành công nghiệp và dịch vụ ngày càng tăng lên, trong khi số lao động ngành nông nghiệp ngày càng giảm đi.
Trong nội bộ cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn cũng đã có sự chuyển dịch ngày càng tích cực hơn theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Tỷ trọng giá trị sản xuất công nghiệp khu vực nông thôn đã tăng từ 17,3% năm 2001 lên 19,3% năm 2007. Trên cơ sở đó, đã tác động tích cực đến chuyển dịch cơ cấu lao động xã hội nông thôn mà biểu hiện rõ nhất là thúc đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu hộ nông thôn theo hướng ngày càng tăng thêm các hộ làm công nghiệp, thương mại và dịch vụ; trong khi số hộ làm nông nghiệp thuần tuý giảm dần. Tỷ lệ hộ nông nghiệp (bao gồm cả lâm nghiệp, ngư nghiệp) đã giảm 9,87%; tỷ lệ hộ công nghiệp tăng lên 8,78%. Năm 2007, số hộ công nghiệp và dịch vụ trên địa bàn nông thôn có 3,6 triệu hộ, tăng 62% so với năm 2000.
Trong cơ cấu các thành phần kinh tế kinh tế tư nhân được phát triển không hạn chế về quy mô và địa bàn hoạt động trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm. Từ những định hướng đó, khung pháp lý ngày càng được đổi mới, tạo thuận lợi cho việc chuyển dần từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường, nhằm giải phóng sức sản xuất, huy động và sử dụng các nguồn lực có hiệu quả, tạo đà cho tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Về cơ cấu vùng kinh tế, trong những năm vừa qua cũng đạt được nhiều thành tựu quan trọng, đóng góp vào quá trình phát triển kinh tế. Trên bình diện quốc gia, đã hình thành 6 vùng kinh tế: vùng trung du miền núi phía Bắc, vùng đồng bằng sông Hồng, vùng Bắc Trung bộ và Duyên hải miền Trung, vùng Tây Nguyên, vùng Đông Nam bộ và vùng đồng bằng sông Cửu Long. Trong đó, có 3 vùng kinh tế trọng điểm là vùng động lực cho tăng trưởng kinh tế cả nước.
Các địa phương cũng đẩy mạnh việc phát triển sản xuất trên cơ sở xây dựng các khu công nghiệp tập trung, hình thành các vùng chuyên canh cho sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, chế biến, nuôi trồng thuỷ sản, hình thành các vùng sản xuất hàng hoá trên cơ sở điều kiện tự nhiên, kinh tế – xã hội của từng vùng. Điều này tạo thuận lợi cho phát triển công nghiệp chế biến, góp phần tạo nên xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng sản xuất hàng hoá, hướng về xuất khẩu.
Cơ cấu nền kinh tế đã chuyển dịch tích cực theo hướng mở cửa, hội nhập vào kinh tế toàn cầu, thể hiện ở tỷ lệ xuất khẩu/GDP (XK/GDP) ngày càng tăng, nghĩa là hệ số mở cửa ngày càng lớn, từ 34,7% năm 1992 lên 47% năm 2001, và đến năm 2005 là trên 50%. Tổng kim ngạch xuất khẩu 5 năm 2001 – 2005 đã đạt 111 tỉ USD, tăng bình quân 17,5%/năm (kế hoạch là 16%/năm), khiến cho năm 2005, bình quân kim ngạch xuất khẩu/người đã đạt 390 USD/năm, gấp đôi năm 2000. Năm 2006, kim ngạch xuất khẩu tiếp tục đạt mức cao – 40 tỉ USD, tăng 24% so với năm 2005; năm 2007 đạt gần 50 tỉ USD, tăng 21,5% so với năm 2006; năm 2008 tăng 29,5% so với năm 2007, đưa tỷ lệ XK/GDP đạt khoảng 70%.
Nhiều sản phẩm của Việt Nam như gạo, cao su, may mặc, giày dép, hải sản… đã có sức cạnh tranh cao trên thị trường thế giới. Các hoạt động kinh tế đối ngoại khác như đầu tư trực tiếp từ nước ngoài (FDI) và viện trợ phát triển chính thức (ODA) cũng đều tăng trưởng khả quan, đặc biệt là vốn FDI đã có bước phát triển tích cực, tăng mạnh từ năm 2004 đến nay. Năm 2001, vốn FDI vào Việt Nam là 3,2 tỉ USD; tiếp theo, năm 2002: 3,0 tỉ USD; 2003: 3,2 tỉ USD; 2004: 4,5 tỉ USD; 2005: 6,8 tỉ USD; 2006: 10,2 tỉ USD; và năm 2007 vừa qua đã là năm thứ hai nước ta liên tục nhận được các nguồn vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài (FDI) đạt con số kỷ lục: 20,3 tỉ USD, tăng gấp đôi so với năm 2006, bằng tổng mức thu hút FDI của cả giai đoạn 5 năm 2001-2005, chiếm 1/4 tổng vốn FDI vào Việt Nam trong suốt hơn 20 năm vừa qua.
Hoạt động đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài đã bước đầu được triển khai. Các doanh nghiệp Việt Nam đã có một số dự án đầu tư ra nước ngoài như khai thác dầu ở An-giê-ri, Xin-ga-po, Vê-nê-du-ê-la; trồng cao su ở Lào…
Kết quả chuyển dịch cơ cấu kinh tế sau hơn 20 năm đổi mới là một trong những nguyên nhân quan trọng và cơ bản nhất đưa đến các kết quả, thành tựu tăng trưởng kinh tế khả quan, tạo ra những tiền đề vật chất trực tiếp để chúng ta giữ được các cân đối vĩ mô của nền kinh tế như thu chi ngân sách, vốn tích luỹ, cán cân thanh toán quốc tế…, góp phần bảo đảm ổn định và phát triển kinh tế – xã hội theo hướng bền vững. Các chương trình mục tiêu quốc gia về xoá đói giảm nghèo, chương trình về đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội cho các vùng khó khăn, các chương trình tín dụng cho người nghèo và chính sách hỗ trợ trực tiếp đã mang lại kết quả rõ rệt. Tỷ lệ hộ nghèo đã giảm từ 17,2% năm 2006 xuống còn 14,7% năm 2007, và năm 2008 còn 13,1%. Chỉ số phát triển con người (HDI) đã không ngừng tăng, được lên hạng 4 bậc, từ thứ 109 lên 105 trong tổng số 177 nước…
2. Những hạn chế, bất cập của chuyển dịch cơ cấu kinh tế
So với yêu cầu đặt ra, tốc độ chuyển dịch CCKT còn chậm và chất lượng chưa cao. Ngành công nghiệp tuy có tốc độ tăng trưởng cao, nhưng yếu tố hiện đại trong toàn ngành chưa được quan tâm đúng mức, trình độ kỹ thuật công nghệ nhìn chung, vẫn ở mức trung bình. Công nghiệp chế biến, đặc biệt là những ngành công nghệ cao chưa phát triển. Tỷ trọng dịch vụ trong GDP giảm liên tục trong những năm gần đây. Những ngành dịch vụ có hàm lượng chất xám và giá trị gia tăng cao như dịch vụ tài chính – tín dụng, dịch vụ tư vấn chậm phát triển. Tình trạng độc quyền, dẫn tới giá cả dịch vụ cao, chất lượng dịch vụ thấp còn tồn tại ở nhiều ngành như điện lực, viễn thông, đường sắt. Một số ngành có tính chất động lực như giáo dục – đào tạo, khoa học – công nghệ, tính chất xã hội hoá còn thấp, chủ yếu dựa vào nguồn vốn của Nhà nước.
Tháng 9-2008, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã đưa ra đánh giá tổng quan về tình hình thực hiện kế hoạch kinh tế – xã hội trong 3 năm qua (2006-2008) và dự báo khả năng thực hiện 52 chỉ tiêu chủ yếu đã được Đại hội X của Đảng đề ra trong kế hoạch kinh tế – xã hội giai đoạn 2006-2010, trong đó có các chỉ tiêu liên quan đến việc thực hiện nhiệm vụ chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta. Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã đưa ra cảnh báo, mặc dù đã có sự chuyển dịch đúng hướng, song tiến độ thực hiện còn chậm so với mục tiêu kế hoạch; trong bối cảnh kinh tế toàn cầu suy thoái hiện nay mà dự báo là sẽ còn rất nan giải, chí ít là trong vài ba năm tới, nếu không có các giải pháp chính sách thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa trong phát triển công nghiệp và dịch vụ theo hướng nâng cao sản lượng và chất lượng tăng trưởng, chuyển dịch cơ cấu các ngành kinh tế cùng với chuyển dịch cơ cấu lao động từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ… thì khó có thể thực hiện được mục tiêu đã đề ra. Có cảnh báo đó là vì, theo ước tính, đến hết năm 2008, tỷ trọng nông nghiệp trong GDP vẫn còn 20,6-20,7%, trong khi kế hoạch đến năm 2010 phải giảm còn 15-16%; giá trị công nghiệp năm 2008 mới đạt 40,6-40,7% GDP, trong khi kế hoạch đến năm 2010 phải đạt 43-44%; tỷ trọng thương mại – dịch vụ năm 2008 ước tính có thể đạt 38,7-38,8% GDP, trong khi kế hoạch đến năm 2010 phải là 40-41%.
3. Một số giải pháp tiếp tục chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Trong Báo cáo của Chính phủ trình bày tại kỳ họp thứ tư, Quốc hội khoá XII (tháng 10-11-2008) đã nêu rõ có nhiều nguyên nhân khiến cho kinh tế nước ta lâm vào tình trạng lạm phát và suy giảm tăng trưởng từ đầu năm 2008 đến nay, trong đó có một nguyên nhân cơ bản là chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH còn chậm. Vì thế đẩy nhanh chuyển dịch CCKT theo hướng CNH, HĐH vẫn được coi là một trong những giải pháp quan trọng hàng đầu để phát triển bền vững. Cụ thể, để phấn đấu đạt được mục tiêu kế hoạch chuyển dịch CCKT đến năm 2010 như Đại hội X đã đề ra, cần thực hiện tốt hơn nữa những vấn đề sau đây:
- Tăng mạnh hơn nữa tỷ trọng của công nghiệp và dịch vụ trong tổng sản phẩm quốc nội (GDP). Chuyển dịch CCKT theo hướng CNH, HĐH ở nước ta trước hết chính là quá trình phát triển mạnh các ngành nghề phi nông nghiệp, thông qua đó giảm bớt lao động trong lĩnh vực nông nghiệp, tăng khả năng tích luỹ cho dân cư. Đây lại chính là điều kiện để tái đầu tư, áp dụng các phương pháp sản xuất, công nghệ tiên tiến hiện đại vào sản xuất, trong đó có cả sản xuất nông nghiệp. Kết quả là, tất cả các ngành kinh tế đều phát triển, nhưng ngành công nghiệp và dịch vụ cần phát triển nhanh hơn, biểu hiện là tăng tỷ trọng của sản phẩm công nghiệp và dịch vụ trong GDP.
- Hình thành các vùng kinh tế dựa trên tiềm năng, lợi thế của vùng, gắn với nhu cầu của thị trường. Chuyển dịch CCKT theo hướng CNH, HĐH là quá trình chuyển biến căn bản về phân công lao động xã hội theo lãnh thổ. Xoá bỏ tình trạng chia cắt về thị trường giữa các vùng; xoá bỏ tình trạng tự cung tự cấp, đặc biệt là tự cung, tự cấp về lương thực của từng vùng, từng địa phương. Mỗi địa phương cần đặt mình trong một thị trường thống nhất, không chỉ là thị trường cả nước mà còn là thị trường quốc tế, trên cơ sở đó xác định những khả năng, thế mạnh của mình để tập trung phát triển, tham gia vào quá trình phân công và hợp tác lao động có hiệu quả.
- Chuyển dịch CCKT theo hướng CNH, HĐH gắn với quá trình hình thành các trung tâm kinh tế thương mại, gắn liền với quá trình đô thị hoá. Mặt khác, việc quy hoạch xây dựng các khu đô thị, trung tâm kinh tế, thương mại có ảnh hưởng trực tiếp trở lại tới quá trình chuyển dịch CCKT.
- Giải quyết việc làm, giảm tỷ lệ lao động nông nghiệp trong tổng số lao động xã hội. Chuyển dịch CCKT theo hướng CNH, HĐH là quá trình phân công lao động xã hội, là quá trình chuyển dịch lao động từ ngành nông nghiệp sang các ngành công nghiệp và dịch vụ. Đây là giải pháp vừa cấp bách, vừa triệt để để giải quyết tình trạng thiếu việc làm ở nông thôn hiện nay, đồng thời là hệ quả tất yếu của quá trình chuyển dịch CCKT theo hướng CNH, HĐH.
- Chuyển dịch CCKT theo hướng CNH,HĐH phải theo định hướng dẫn đến phát triển bền vững không chỉ vì mục tiêu tăng trưởng kinh tế đơn thuần mà phải vì mục tiêu phát triển kinh tế mà bao trùm lên cả là vì mục tiêu phát triển bền vững, trong đó có một cấu thành bộ phận rất quan trọng và không thể thiếu là bảo vệ môi trường. Từ đó cho thấy, các nhà lãnh đạo, nhà quản lý cho đến các doanh nghiệp, các địa phương, cơ sở… cần phải hết sức chú ý thực hiện tốt vấn đề này, tránh tình trạng vì lợi nhuận kinh tế trước mắt dẫn đến phá huỷ nghiêm trọng môi trường sinh thái tự nhiên như vừa qua và hiện nay công luận vẫn đang tiếp tục lên án về không ít các trường hợp doanh nghiệp đã vi phạm nghiêm trọng pháp luật bảo vệ môi trường./
(Bài này số liệu bị cũ – TuanPQ)



Câu 4.           Bản chất và tác động của toàn cầu hóa kinh tế.
I.Toàn cầu hóa là gì?
Toàn cầu hóa là quá trình tăng lên mạnh mẽ những mối liên hệ ảnh hưởng, tác động lẫn nhau, phụ thuộc lẫn nhau của các khu vực, các quốc gia, các dân tộc trên thế giới, làm nổi bật hàng loạt biến đổi có quan hệ lẫn nhau mà từ đó chúng có thể phát sinh một loạt điều kiện mới. 
-        Toàn cầu hóa là quá trình tăng lên mạnh mẽ các mối liên hệ tác động lẫn nhau, phụ thuộc lẫn nhau.
-        Gây ra hàng loạt sự biến đổi về thể chế kinh tế, cơ cấu kinh tế, chính sách kinh tế…
-        Tạo những điều kiện mới, môi trường mới cho sự hợp tác, cạnh tranh và phát triển.
-        Xu hướng Toàn cầu hóa là kết quả của cuộc cách mạng của lực lượng sản xuất, cuộc cách mạng KHCN
2.Toàn cầu hóa về kinh tế
-        Toàn cầu hóa về kinh tế là sự liên kết của nhiều nước cùng trong chiều hướng phát triển chung, cùng tham gia trong một thị trường chung.
-        Toàn cầu hóa kinh tế thúc đẩy nhanh chóng quan hệ kinh tế thương mại trên phạm vi quốc tế.
-        Toàn cầu hóa kinh tế là quá trình phát triển, chứa đựng những thách thức và nguy cơ rất lớn. 
3.Hội nhập kinh tế quốc tế
-        Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình mở rộng giao lưu kinh tế và khoa học công nghệ giữa các nước trên quy mô toàn cầu; là quá trình tham gia giải quyết các vấn đề kinh tế - xã hội có tính toàn cầu hóa như vấn đề dân số, tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường sống…; là quá trình loại bỏ dần các hàng rào trong thương mại quốc tế, thanh toán quốc tế, và việc di chuyển các nhân tố sản xuất giữa các nước. 
4.Chủ động và tích cực Hội nhập kinh tế quốc tế.
-        Chủ động Hội nhập kinh tế quốc tế là hành vi có ý thức, tự giác của các quốc gia, doanh nghiệp trong việc xây dựng và thực hiện các chiến lược phát triển kinh tế-xã hội, chiến lược đầu tư, sản xuất kinh doanh trên cơ sở lộ trình, hình thức và bước đi đã lựa chọn nhằm phát huy có hiệu quả những lợi thế của đất nước, tránh được những tác động tiêu cực vào đất nước trong quá trình hội nhập vào nền kinh tế của các quốc gia trong khu vực và trên thế giới. 
*Đối với Việt Nam:
-        Chủ động Hội nhập kinh tế quốc tế là:
+        Hoàn toàn chủ động quyết định đường lối, chính sách.
+        Chủ động nắm vững quy luật, tính tất yếu của sự vận động kinh tế toàn cầu
+        Sáng tạo, phân tích, lựa chọn phương thức hành động đúng, dự báo được tình hình
-        Tích cực Hội nhập kinh tế quốc tế:
+        Khẩn trương chuẩn bị, điều chỉnh, đổi mới phương thức lãnh đạo, quản lý.
+        Khẩn trương xây dựng lộ trình, kế hoạch; hòan chính hệ thống pháp luật.
+        Không duy trì quá lâu chính sách bảo hộ của Nhà nước.
+        Tích cực nhưng phải vững chắc
II. Toàn cầu hóa là một xu thế khách quan
-        Lực lượng lao động phát triển, sự giao lưu kinh tế vượt ra khỏi từng vùng, từng khu vực, từng nước.
-        Sự phát triển của khoa học và công nghệ.
-        Nền sản xuất vật chất phát triển, đòi hỏi sự hợp tác, phân công lao động ngày càng sâu.
-        Nảy sinh nhiều vấn đề toàn cầu mới, đòi hỏi phải có sự hợp tác toàn cầu mới giải quyết được.
III. Đặc điểm của quá trình toàn cầu hóa
-        Toàn cầu hóa phản ánh tương quan lực lượng giữa các nước, các lực lượng tham gia quá trình đó.
-        Toàn cầu hóa không chỉ là một quá trình kinh tế kỹ thuật mà là cuộc đấu tranh kinh tế-xã hội, kinh tế-chính trị và tư tưởng văn hóa rất gay gắt với thời cơ, thách thức đan xen mhau.
IV. Tác động của toàn cầu hóa
1.Tác động tích cực
-        Thị trường được mở rộng, sự giao lưu hàng hóa thông thoáng hơn.
-        Giúp các nước tiếp cận được nguồn vốn, công nghệ từ bên ngoài, hình thành sự phân công lao động quốc tế có lợi.
-        Những thành tựu của khoa học công nghệ được được chuyển giao nhanh chóng, ứng dụng rộng rãi.
-        Mạng lưới thông tin và giao thông vận tải bao phủ toàn cầu.
-        Tạo điều kiện thuận lợi cho cuộc đấu tranh vì hòa bình, hợp tác và phát triển
2.Tác động tiêu cực
-        Các nước công nghiệp phát triển chiếm ưu thế trong nền kinh tế thế giới thao túng Toàn cầu hóa .
-        Sự phân cực giàu nghèo ngày càng sâu sắc.
-        Nền kinh tế Toàn cầu hóa rất dễ bị chấn thương.
-        Tiêu cực trong trao đổi hàng hóa, thương mại.
-        Tội phạm xuyên quốc gia; bản sắc văn hóa các dân tộc bị xâm hại…
V. Những tác động của xu thế toàn cầu hóa tới quan hệ quốc tế và quá trình hội nhập quốc tế trên thế giới
-        Các nước trên thế giới chuyển sang chính sách mở cửa
-        Quan hệ đa phương ngày càng đóng vai trò quan trọng QHQT
-        Tính tùy thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế ngày càng gia tăng.
-        Trong QHQT, luôn luôn tồn tại hai chiều hướng: hợp tác và cạnh tranh.



Câu 5.            Cơ hội, thách thức của hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam và các quan điểm chỉ đạo của Đảng ta đối với quá trình này.
1.      Thời cơ, thuận lợi
Những thành tựu to lớn mà nước ta đạt được trong hội nhập quốc tế thời kỳ đổi mới, trước hết trên lĩnh vực kinh tế, là kết quả của cả một quá trình thực hiện nhất quán đường lối, chính sách đối ngoại rộng mở, đa dạng hóa, đa phương hóa với chủ trương chủ động và tích cực hội nhập kinh tế ngày càng sâu rộng với khu vực và thế giới. Những thành tựu đó đã tạo thêm niềm tin để nước ta càng vững bước trên đường hội nhập, tận dụng tốt nhất những cơ hội mới đang mở ra. 
Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế trong bối cảnh toàn cầu hoá mở ra khả năng cho nước ta, nhất là khi đã là thành viên chính thức WTO, tham gia nhanh và hiệu quả vào hệ thống phân công lao động quốc tế, tận dụng mọi nguồn lực phục vụ mục tiêu phát triển. Do vậy, chúng ta có cơ hội thuận lợi đẩy nhanh quá trình điều chỉnh cơ cấu kinh tế, chuyển dịch cơ cấu lao động và rút ngắn thời gian vật chất của công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá. 
Trong nền kinh tế toàn cầu hoá, các yếu tố như nguồn vốn, công nghệ sản xuất tiên tiến và khoa học quản lý hiện đại có sự lưu chuyển tự do nhanh chóng, cho nên các nước đều có khả năng tiếp cận, sử dụng với mức độ khác nhau. Cùng với dòng chảy khổng lồ về vốn, hàng loạt các hoạt động chuyển giao công nghệ sản xuất và khoa học quản lý tiên tiến được thực hiện, góp phần hữu hiệu vào sự lan toả rộng rãi của các làn sóng tăng trưởng hiện đại. Việc Việt Nam gia nhập các định chế, tổ chức kinh tế, tài chính khu vực cũng như toàn cầu, nhất là WTO tạo cơ hội tiếp cận thị trường hàng hoá và dịch vụ ở tất cả các nước thành viên với mức thuế nhập khẩu đã được cắt giảm và các ngành dịch vụ mà các nước mở cửa theo quy định. Nước ta có điều kiện mở rộng thị trường xuất khẩu, từng bước mở rộng kinh doanh dịch vụ ra ngoài biên giới quốc gia. Với một nền kinh tế có độ mở lớn, kim ngạch xuất khẩu luôn chiếm trên 60% GDP thì điều này càng có ý nghĩa quan trọng, là yếu tố bảo đảm tăng trưởng của nước ta.
Trên lĩnh vực kinh tế, tiến trình hội nhập của nước ta ngày càng sâu rộng thì càng đòi hỏi phải hoàn thiện hệ thống pháp luật kinh theo thông lệ quốc tế, thực hiện công khai, minh bạch các thiết chế quản lý làm cho môi trường kinh doanh của nước ta ngày càng được cải thiện. Đây là tiền đề rất quan trọng để phát huy tiềm năng của mọi thành phần kinh tế trong nước, là cơ hội để tăng cường thu hút đầu tư nước ngoài, bảo đảm tốc độ tăng trưởng bền vững hơn và rút ngắn khoảng cách phát triển. Mặt khác, gia nhập WTO đánh dấu bước phát triển về chất của tiến trình hội nhập, giúp nước ta có được vị thế bình đẳng như các thành viên khác trong việc hoạch định chính sách thương mại toàn cầu, tiếng nói được tôn trọng hơn, có quyền thương lượng và khiếu nại công bằng hơn đối với các tranh chấp thương mại trong khuôn khổ WTO, có điều kiện để bảo vệ lợi ích của đất nước, của doanh nghiệp. Đồng thời, hội nhập vào nền kinh tế thế giới cũng thúc đẩy tiến trình cải cách trong nước, bảo đảm cho tiến trình cải cách của nước ta đồng bộ hơn, có hiệu quả hơn tạo ra động lực lớn thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, góp phần xây dựng nhà nước pháp quyền ngày càng vững mạnh.
Về khách quan, xu thế toàn cầu hoá tạo điều kiện cho tất cả các nước tham gia vào đời sống quốc tế, bày tỏ chính kiến, bảo vệ lợi ích, tập hợp lực lượng... nhằm thực hiện mục tiêu chiến lược của mình. Quá trình hội nhập quốc tế làm cho các nước ngày càng phụ thuộc lẫn nhau. Đây là cơ hội tích cực để có thể loại bỏ các biểu hiện của ý đồ thiết lập mối quan hệ một chiều chứa đựng sự áp đặt, chi phối của các cường quốc đối với đông đảo các quốc gia dân tộc khác trên thế giới, thúc đẩy sự hình thành một trật tự thế giới mới với cơ chế sinh hoạt quốc tế dân chủ, công bằng, bình đẳng hơn.
Hội nhập quốc tế, trong đó có hội nhập kinh tế quốc tế, cũng thúc đẩy mạnh mẽ các hoạt động giao lưu văn hoá và tri thức quốc tế, tăng cường sự hiểu biết, tin cậy lẫn nhau và tình hữu nghị giữa các dân tộc. Dưới ảnh hưởng đó, tri thức loài người, kết tinh cô đọng ở các phát minh, sáng chế khoa học, kỹ thuật, công nghệ... được phổ biến rộng rãi toàn thế giới, tạo động lực cho sự bùng nổ trí tuệ nhân loại. Cũng như nhiều nước khác, tiến trình hội nhập quốc tế của nước ta tạo ra cơ hội thuận lợi để chúng ta chia sẻ lợi ích do toàn cầu hoá đưa lại, đồng thời đóng góp thiết thực vào tiến trình phát triển hợp tác quốc tế trên nhiều lĩnh vực, dân chủ hoá các sinh hoạt quốc tế, tham gia đấu tranh thiết lập trật tự kinh tế quốc tế công bằng hơn, hợp lý hơn.
2.      Thách thức, khó khăn
Tiến trình hội nhập quốc tế của nước ta hiện nay cũng như những năm tới không chỉ có thời cơ và thuận lợi, mà còn phải đối diện với nhiều thách thức lớn. Do đó, chúng ta cũng cần luôn nhận thức rõ những thách thức mà nước ta phải đối mặt để từ đó tìm ra biện pháp khắc phục hữu hiệu.
Trước hết, thách thức lớn nhất và dễ nhận thấy nhất xuất phát từ chỗ nước ta là một nước đang phát triển có trình độ kinh tế thấp, quản lý nhà nước còn nhiều yếu kém và bất cập, doanh nghiệp và đội ngũ doanh nhân còn nhỏ bé, sức cạnh tranh của hàng hóa, dịch vụ nói riêng và của toàn bộ nền kinh tế nói chung còn nhiều hạn chế, hệ thống chính sách kinh tế, thương mại chưa hoàn chỉnh... Cho nên, nước ta sẽ gặp khó khăn lớn trong cạnh tranh cả ở trong nước cả trên trường quốc tế, cạnh tranh sẽ diễn ra gay gắt hơn, với nhiều đối thủ hơn, trên bình diện sâu hơn, rộng hơn. Do thực hiện những cam kết của một thành viên WTO, nhất là việc phải cắt giảm mạnh thuế nhập khẩu, mở cửa sâu rộng về kinh tế, trong đó có việc phải mở cửa các lĩnh vực thương mại hàng hoá và dịch vụ nhạy cảm cao như: ngân hàng, bảo hiểm, viễn thông, năng lượng, vận tải, chuyển phát nhanh, nông nghiệp... bởi vậy nguy cơ rủi ro kinh tế, tình trạng phá sản doanh nghiệp luôn hiện hữu và trở nên rất tiềm tàng. Ngoài ra, trong hội nhập kinh tế quốc tế, nhiệm vụ phát triển khu vực kinh tế tư nhân cũng đòi hỏi phải giải quyết nhiều vấn đề về nhận thức, cơ chế, chính sách,... Về cơ chế bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, nước ta còn nhiều khó khăn về nhãn hiệu thương mại, bản quyền tác giả, bảo vệ thiết kế công nghiệp và người dân chưa có thói quen tuân thủ quyền sở hữu trí tuệ.
Thứ hai, trong quá trình hội nhập quốc tế, cũng như các nước đang phát triển khác, nước ta phải chịu sự ràng buộc của các quy tắc kinh tế, thương mại, tài chính - tiền tệ, đầu tư... chủ yếu do các nước phát triển áp đặt; phải chịu sức ép cạnh tranh bất bình đẳng và sự điều tiết vĩ mô bất hợp lý của các nước phát triển hàng đầu. Dựa vào sức mạnh kinh tế và  mức đóng góp vốn khống chế ở các thiết chế tài chính, tiền tệ và thương mại quốc tế, các nước này đặt ra các “luật chơi” cho phần còn lại của thế giới khi tham gia IMF, WB, WTO... Tự do hoá thương mại và tự do hoá kinh tế, đáng lẽ phải là cái đích cần vươn tới, thì bị họ xác định như xuất phát điểm, như điều kiện tiên quyết đối với các nước đang phát triển trong tiến trình hội nhập quốc tế. Trên thực tế, đây là hoạt động lũng đoạn của tư bản độc quyền quốc tế. Trong hoàn cảnh này, sự cạnh tranh kinh tế quốc tế và sự điều tiết vĩ mô nền kinh tế thế giới vẫn tiếp tục trở nên bất bình đẳng và bất hợp lý mà dĩ nhiên phần bất lợi lớn thuộc về tuyệt đại đa số các nước đang phát triển trong đó có nước ta.
Thứ ba, trên lĩnh vực xã hội, quá trình hội nhập quốc tế trong xu thế toàn cầu hoá đặt ra một thách thức nan giải đối với nước ta trong việc thực hiện chủ trương tăng trưởng kinh tế đi đôi với xoá đói, giảm nghèo, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Sở dĩ vậy là vì lợi ích của toàn cầu hoá được phân phối một cách không đồng đều, những nước có nền kinh tế phát triển thấp được hưởng lợi ít hơn. Trong phạm vi mỗi quốc gia cũng vậy, một bộ phận dân cư được hưởng lợi ích ít hơn, thậm chí còn bị tác động tiêu cực của toàn cầu hoá; nguy cơ thất nghiệp và sự phân hoá giàu nghèo sẽ tăng lên mạnh mẽ. Sức ép toàn diện khi nước ta thực hiện các cam kết với WTO sẽ đè nặng lên khu vực nông nghiệp là nơi có tới gần 70% dân số và lực lượng lao động xã hội, đồng thời chúng ta còn sự hạn chế lớn về sức cạnh tranh của hàng hóa, về sự chưa phù hợp của nhiều chính sách... Trong tình hình như đã nêu, cơ cấu xã hội có thể biến động phức tạp và khó lường, làm cho sự phân tầng, phân hoá xã hội cũng trở thành yếu tố tiêu cực đối với bản thân sự phát triển của đất nước.
Thứ tư, quá trình hội nhập quốc tế đặt ra những vấn đề mới về bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hoá và truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Trên lĩnh vực an ninh quốc gia, các nguy cơ đe doạ an ninh ngày càng phức tạp hơn, bên cạnh các hiểm hoạ mang tính truyền thống, đã xuất hiện các nguy cơ phi truyền thống (an ninh môi trường, dịch bệnh, khủng bố...); cục diện an ninh luôn thay đổi; công cụ, biện pháp, hình thức, cơ chế bảo đảm an ninh cũng cần phải đổi mới thường xuyên. Vấn đề gắn an ninh, quốc phòng với kinh tế và an ninh, quốc phòng với đối ngoại trở thành nhiệm vụ vừa cơ bản vừa cấp bách hiện nay của nước ta. Hội nhập quốc tế trong một thế giới toàn cầu hoá, tính tuỳ thuộc giữa các nước sẽ tăng lên. Sự biến động trên thị trường, cũng như tình hình chính chính trị khu vực và thế giới sẽ tác động mạnh đến thị trường và đời sống chính trị trong nước. Điều đó đòi hỏi chúng ta phải có chính sách kinh tế vĩ mô đúng đắn, có năng lực dự báo và phân tích tình hình quốc tế, đồng thời cơ chế quản lý phải tạo cơ sở để nền kinh tế có khả năng phản ứng tích cực, hạn chế được ảnh hưởng tiêu cực trước những biến động trên thị trường thế giới, giữ vững an ninh kinh tế và ổn định chính trị- xã hội.
Trên lĩnh vực văn hoá, quá trình hội nhập quốc tế đặt nước ta trước nguy cơ bị các giá trị ngoại lai (trong đó có lối sống thực dụng, chạy theo đồng tiền), nhất là các giá trị văn hoá phương Tây xâm nhập ồ ạt, làm tổn hại bản sắc văn hoá dân tộc. Chưa bao giờ văn hoá nhân loại lại đứng trước một nghịch lý phức tạp như trong kỷ nguyên toàn cầu hoá hiện nay: vừa có khả năng giao lưu rộng mở, vừa có nguy cơ bị nghèo văn hoá rất nghiêm trọng.  
Thứ năm, trên lĩnh vực chính trị, tiến trình hội nhập quốc tế ở nước ta cũng đang đối diện trước thách thức của một số nguy cơ đe doạ độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ, sự lựa chọn định hướng chính trị, vai trò của nhà nước... Đã xuất hiện những mưu đồ lấy sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nước để hạ thấp chủ quyền quốc gia; lấy một thị trường không biên giới để phủ nhận tính bất khả xâm phạm của toàn vẹn lãnh thổ quốc gia; lấy các thiết chế quốc tế làm mô hình siêu nhà nước đứng trên các nhà nước quốc gia, áp đặt các giá trị dân chủ và nhân quyền phương Tây trong quan hệ quốc tế, đưa ra thuyết "nhân quyền cao hơn chủ quyền"... Hội nhập quốc tế đối với nước ta rõ ràng không thể tách rời cuộc đấu tranh chống "diễn biến hoà bình" của các thế lực chống đối trên nhiều lĩnh vực.
Có thể nói, hội nhập quốc tế ở nước ta là một quá trình với cơ hội và thách thức đan xen tồn tại dưới dạng tiềm năng và có thể chuyển hoá lẫn nhau. Cơ hội và thách thức chỉ trở thành hiện thực trong những điều kiện cụ thể, mà ở đó vai trò của nhân tố chủ quan có tính quyết định rất lớn, trước hết đó là hiệu quả hoạt động lãnh đạo của Đảng, sự điều hành quản lý của Nhà nước và tinh thần tự lực tự cường, đoàn kết của toàn dân tộc. Thực tế đã chứng tỏ việc kiên định nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát triển; chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế với chủ trương chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế là sự lựa chọn đúng đắn, tất yếu đối với nước ta trong bối cảnh toàn cầu hoá sôi động hiện nay. Những thành tựu quan trọng giành được trong quá trình hội nhập quốc tế, trước hết là hội nhập kinh tế quốc tế là cơ sở để đất nước ta vững bước trên đường hội nhập và phát triển, sớm ra khỏi tình trạng kém phát triển, công nghiệp hoá, hiện đại hoá thành công, hướng tới mục tiêu chiến lược dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
3.      Các quan điểm chỉ đạo của Đảng ta đối với quá trình này
Về mục tiêu của hội nhập quốc tế: Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế để tranh thủ tối đa các nguồn lực từ bên ngoài (ngoại lực) phục vụ sự nghiệp bảo vệ, xây dựng và phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong lĩnh vực kinh tế, Nghị quyết 07 của Bộ Chính trị nêu rõ mục tiêu: “mở rộng thị trường, tranh thủ thêm vốn, công nghệ, kiến thức quản lý để đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng XHCN, thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Quá trình hội nhập quốc tế trước hết là đáp ứng lợi ích phát triển của đất nước; mặt khác thông qua đó phát huy vai trò của nước ta trong quá trình hợp tác và phát triển khu vực và thế giới, đóng góp vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Để hội nhập quốc tế một cách hiệu quả, Đảng ta xác định rõ nguyên tắc cơ bản và bao trùm là bảo đảm giữ vững độc lập, tự chủ và định hướng XHCN, bảo đảm vững chắc an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc. Giữ vững độc lập tự chủ thể hiện trước hết trong quyết sách hội nhập nhằm khai thác tối đa các lợi thế, đối phó thắng lợi với các thách thức đặt ra của quá trình hội nhập; chủ động lựa chọn các tổ chức tham gia, các đối tác và hình thức quan hệ, thời điểm tham gia hội nhập, xây dựng lộ trình hội nhập hợp lý trong khuôn khổ quy định chung; chủ động điều chỉnh chính sách cho phù hợp với mục tiêu và yêu cầu hội nhập. đường lối và chính sách đối ngoại rộng mở luôn dựa trên sự kiên trì giữ vững nguyên tắc đối ngoại cơ bản, bao trùm là vì hoà bình, độc lập, thống nhất và chủ nghĩa xã hội. Trong phát triển quan hệ đối ngoại và hội nhập quốc tế, Đảng ta còn nêu rõ 4 nguyên tắc cụ thể: Một là, tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau. Hai là, không dùng vũ lực hoặc đe doạ dùng vũ lực. Ba là, giải quyết các bất đồng và tranh chấp thông qua thương lượng hoà bình. Bốn là, tôn trọng lẫn nhau, bình đẳng và cùng có lợi.
Về tư tưởng chỉ đạo hội nhập quốc tế: Xuất phát từ mục tiêu và lợi ích của hội nhập quốc tế, Đảng ta đề ra tư tưởng chỉ đạo đối ngoại nói chung và hội nhập quốc tế nói riêng. Theo đó, trong hội nhập quốc tế phải giữ vững nguyên tắc vì độc lập, thống nhất và chủ nghĩa xã hội (CNXH), đồng thời phải rất sáng tạo, năng động, linh hoạt, phù hợp với vị trí, điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam, cũng như diễn biến của tình hình thế giới và khu vực, phù hợp với từng đối tượng mà Việt Nam có quan hệ. Đây chính là sự kế thừa và vận dụng sáng tạo quan điểm “dĩ bất biến ứng vạn biến”, vừa kiên định về nguyên tắc chiến lược, vừa mềm dẻo, linh hoạt về sách lược trong tư tưởng Hồ Chí Minh đối với việc xử lý các vấn đề quốc tế của nước trong quá trình hội nhập. Quán triệt sâu sắc tư tưởng chỉ đạo nêu trên, Việt Nam chú trọng mở rộng quan hệ quốc tế cả song phương và đa phương nhưng có nguyên tắc, mà nguyên tắc cao nhất, đồng thời cũng là lợi ích dân tộc cao nhất, đó là độc lập dân tộc, thống nhất đất nước và phát triển theo định hướng XHCN. Đại hội XI của Đảng chỉ rõ chủ động và tích cực hội nhập quốc tế là vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh, đồng thời góp phần tích cực vào sự nghiệp hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.
 Trong hội nhập quốc tế về kinh tế, Đảng ta xác định rõ 5 quan điểm chỉ đạo, bao gồm(6):
Một là: Phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập, tự chủ và định hướng XHCN, bảo vệ lợi ích dân tộc; an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ môi trường.
Hai là: Hội nhập kinh tế quốc tế là sự nghiệp của toàn dân, trong quá trình hội nhập cần phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của mọi thành phần kinh tế, của toàn xã hội, trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo.
Ba là: Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình vừa hợp tác vừa đấu tranh và cạnh tranh, vừa có nhiều cơ hội vừa không ít thách thức, do đó cần tỉnh táo, khôn khéo và linh hoạt trong việc xử lý tính hai mặt của hội nhập tuỳ theo đối tượng, vấn đề, trường hợp, thời điểm cụ thể; vừa phải đề phòng tư tưởng trì trệ, thụ động, vừa phải chống tư tưởng giản đơn, nôn nóng.
Bốn là: Nhận thức đầy đủ đặc điểm nền kinh tế nước ta, từ đó đề ra kế hoạch và lộ trình hợp lý, vừa phù hợp với trình độ phát triển của đất nước, vừa đáp ứng những quy định của các tổ chức kinh tế quốc tế mà nước ta tham gia.
Năm là: Kết hợp chặt chẽ quá trình hội nhập kinh tế quốc tế với yêu cầu giữ vững an ninh, quốc phòng, nhằm củng cố chủ quyền và an ninh đất nước, cảnh giác với những âm mưu thông qua hội nhập để thực hiện ý đồ diễn biến hoà bình đối với nước ta.
Về nội dung, hội nhập quốc tế là thúc đẩy phát triển quan hệ song phương và đa phương với các nước trên thế giới, tham gia các tổ chức khu vực và thế giới trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, khoa học - kỹ thuật, các phong trào chính trị-xã hội... nhằm đáp ứng lợi ích phát triển và nâng cao vị thế quốc tế của nước ta. Việt Nam. Trong quá trình hội nhập quốc tế, Đảng và Nhà nước ta chú trọng những hướng hoạt động đối ngoại như: Tăng cường quan hệ với các nước láng giềng và các nước lớn; thúc đẩy quan hệ hợp tác toàn diện và có hiệu quả với các nước ASEAN, các nước châu Á - Thái Bình Dương; phát triển quan hệ hợp tác song phương tin cậy với các đối tác chiến lược. Củng cố quan hệ với các đảng cộng sản, công nhân, đảng cánh tả, các phong trào độc lập dân tộc và tiến bộ trên thế giới; từng bước mở rộng quan hệ với các đảng cầm quyền. Tham gia các cơ chế hợp tác chính trị, an ninh song phương và đa phương vì lợi ích quốc gia trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, Hiến chương Liên Hợp quốc. Thực hiện tốt các công việc tại các tổ chức quốc tế, đặc biệt là Liên Hợp quốc. Tích cực hợp tác cùng các nước, các tổ chức khu vực và quốc tế đối phó với những thách thức an ninh phi truyền thống, nhất là tình trạng biến đổi khí hậu. Phát triển công tác đối ngoại nhân dân theo phương châm: “chủ động, linh hoạt, sáng tạo và hiệu quả”, tích cực tham gia các diễn đàn và hoạt động của nhân dân thế giới. Tăng cường vận động viện trợ và nâng cao hiệu quả hợp tác với các tổ chức phi chính phủ nước ngoài để phát triển kinh tế - xã hội. Đẩy mạnh công tác văn hoá - thông tin đối ngoại, góp phần tăng cường sự hợp tác, tình hữu nghị giữa nhân dân ta với nhân dân các nước. Chủ động tham gia cuộc đấu tranh chung vì quyền con người, sẵn sàng đối thoại với các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực có liên quan về vấn đề nhân quyền; song đồng thời cũng kiên quyết làm thất bại các âm mưu, hành động xuyên tạc và lợi dụng các vấn đề “dân chủ”, “nhân quyền”, “dân tộc”, “tôn giáo” hòng can thiệp vào công việc nội bộ, làm mất an ninh và ổn định chính trị của nước ta...
Phương châm cơ bản để tiến hành hội nhập quốc tế là bảo đảm nguyên tắc cùng có lợi trong quan hệ song phương và đa phương. Theo nguyên tắc này, một mặt không để thiệt hại đến lợi ích cần có và hợp lý mà ta được hưởng, mặt khác phải chấp nhận một sự chia sẻ hợp lý lợi ích cho các đối tác tuỳ theo mức độ đóng góp của các bên tham hợp tác. Trong hợp tác liên kết và hội nhập quốc tế cần giữ vững nguyên tắc vừa hợp tác vừa đấu tranh, vừa kiên quyết vừa mềm dẻo để đạt tới mục tiêu, bảo vệ được lợi ích chính đáng của đất nước; đồng thời phải luôn cảnh giác, không mơ hồ trước những âm mưu và thủ đoạn lợi dụng hợp tác quốc tế để can thiệp, áp đặt về chính trị.



Câu 6.            Phương hướng và quan điểm chỉ đạo việc xây dựng, phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc.
Trong thời kỳ đổi mới hiện nay, Đảng ta đã khẳng định nền văn hóa mà chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Nghị quyết “Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” mà Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII (1998) đưa ra đến nay vẫn là Nghị quyết có ý nghĩa chiến lược, chỉ đạo quá trình xây dựng và phát triển sự nghiệp văn hóa ở nước ta, cần được kế thừa, bổ sung và phát huy trong thời kỳ mới. Văn kiện Đại hội X (2006) đã nhấn mạnh: “Tiếp tục phát triển sâu rộng và nâng cao chất lượng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, gắn kết chặt chẽ và đồng bộ hơn với phát triển kinh tế - xã hội, làm cho văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội[1].
Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển 2011) được Đại hội XI của Đảng thông qua đã xác định: “Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển toàn diện, thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ; làm cho văn hóa gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành nền tảng tinh thần vững chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển[2].
Đảng ta đã xác định: “Phương hướng chung của sự nghiệp văn hoá nước ta là phát huy chủ nghĩa yêu nước và truyền thống đại đoàn kết dân tộc, ý thức độc lập tự chủ, tự cường, xây dựng và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa, xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đạm đà bản sắc dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại, làm cho văn hoá thấm sâu vào toàn bộ đời sống và hoạt động xã hội, vào từng người, từng gia đình, từng tập thể và cộng đồng, từng địa bàn dân cư, tạo ra trên đất nước ta đời sống tinh thần cao đẹp, trình độ dân trí cao, khoa học phát triển, phục vụ đắc lực sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh. xã hội công bằng, văn minh, tiến bước vững chắc lên chủ nghĩa xã hội”[3].
- Về phương hướng xây dựng và phát triển văn hóa hiện nay, chúng ta cần nhấn mạnh hai điểm sau:
Thứ nhất, trong thời kỳ đổi mới hiện nay, chúng ta phải phát huy chủ nghĩa yêu nước và truyền thống đại đoàn kết dân tộc, ý thức độc lập tự chủ tự cường để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Mặc dù đây là thời kỳ hoà bình và xây dựng đất nước nhưng không phải là thời kỳ nghỉ ngơi, hưởng lạc mà là thời kỳ mở ra một cuộc chiến đấu mới chống lại nghèo nàn, lạc hậu, đưa đất nước phát triển giàu mạnh.
Trong cuộc chiến đấu quyết liệt này, chủ nghĩa yêu nước, sự thông minh và giàu năng lực sáng tạo của nhân dân, truyền thống đại đoàn kết dân tộc, ý thức độc lập, tự chủ, tự cường là cơ sở tạo nên sự thống nhất về ý chí, bản lĩnh của dân tộc trong quá trình đấu tranh gian khổ, vất vả, đầy thách thức để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Vì vậy, giáo dục truyền thống yêu nước, bổ sung những nội dung mới vào khái niệm yêu nước, kết hợp chủ nghĩa yêu nước với tư tưởng cách mạng và tiến bộ của thời đại; giáo dục tinh thần tự hào, tự tin dân tộc, tin vào con đường xã hội chủ nghĩa mà Bác Hồ, Đảng ta và nhân dân ta đã lựa chọn; bồi dưỡng quyết tâm chính trị, xây dựng ý chí và bản lĩnh của cả dân tộc trong cuộc chiến đấu mới này là nhiệm vụ chung của toàn Đảng, toàn dân ta.
Thứ hai, về hành động, chúng ta phải chủ động, tích cực, sáng tạo hơn nữa trong việc nâng cao chất lượng xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, tạo điều kiện và cơ hội nhiều hơn nữa để nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực và khoa học công nghệ, xây dựng môi trường văn hoá lành mạnh, thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Ở đây, cần phát huy tính tích cực chính trị của công dân, chú trọng tới các phong trào quần chúng trong tổ chức và xây dựng sự nghiệp phát triển văn hoá, làm cho văn hóa gắn kết chặt và đồng bộ hơn với phát triển kinh tế, xây dựng Đảng, củng cố hệ thống chính trị và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội.
Năm quan điểm chỉ đạo cơ bản trong quá trình xây dựng và phát triển sự nghiệp phát triển văn hoá nước ta là:
- Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế- xã hội.
- Nền văn hoá mà chúng ta đang xây dựng là nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
- Nền văn hoá Việt Nam là nền văn hoá thống nhất mà đa dạng trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam.
- Xây dựng và phát triển văn hoá là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh đạo, trong đó đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng.
- Văn hoá là một mặt trận; xây dựng và phát triển văn hoá là một sự nghiệp cách mạng lâu dài, đòi hỏi phải có ý chí cách mạng và sự kiên trì thận trọng.
Năm quan điểm này đều mang tầm chiến lược lâu dài cần quán triệt nhất quán và xuyên suốt quá trình xây dựng và phát triển sự nghiệp văn hoá ở nước ta trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa và hội nhập kinh tế quốc tế.



Câu 7.            Chính sách xã hội và một số quan điểm cơ bản về hoạch định, thực hiện chính sách xã hội.
CSXH là gì?.
CSXH là một hệ thống những quan điểm, chủ trương, phương hướng, biện pháp của nhà nước và các tổ chức chính trị - XH khác được thể chế hoá để giải quyết những vấn đề XH mà trước hết là những vấn đề XH gay cấn nhằm bảo đảm sự an toàn và phát triển XH.
CSXH là chính sách đối với con người, tìm cách tác động vào các hệ thống quan hệ XH (quan hệ các giai cấp, các tầng lớp XH, quan hệ các nhóm XH khác nhau) tác động vào hoàn cảnh sống của con người và của các nhóm XH, (bao gồm điều kiện lao động và điều kiện sinh hoạt) nhằm điều chỉnh các quan hệ XH, bảo đảm và thiết lập được công bằng XH trong điều kiện XH nhất định.
2- Tầm quan trọng, vị trí của CSXH trong hệ thống chính sách hiện nay.
Con người là nguồn lực quan trọng nhất, là vốn quý nhất của mỗi quốc gia. Hiện nay, nước ta đang tiến hành công cuộc CNH-HĐH đất nước nhằm biến một nước chậm phát triển thành một quốc gia phát triển, nhân tố con người là nguồn lực quan trọng nhất trong 4 nguồn lực của sự phát triển (vốn, tài nguyên, con người và vị trí địa lý). Kinh nghiệm thế giới 2 thập kỷ qua đã cho thấy sự nghiệp CNH và phát triển kinh tế của một quốc gia nếu không gắn liền với mục tiêu phát triển con người sẽ dẫn đến những thảm họa về XH và môi trường. Phát triển con người vừa là động lực của sự phát triển KT-XH vừa là điều kiện thực hiện CNH; đồng thời cũng là mục tiêu của sự phát triển KT-XH, của công nghiệp hóa. Để phát triển con người toàn diện, một trong những công cụ, biện pháp mà nhà nước áp dụng là thực hiện hàng loạt các CSXH.
Thật vậy, chúng ta có thể thấy rằng CSXH là chính sách đối với con người, nó phát huy mọi tiềm năng, nguồn lực con người trong việc ổn định và phát triển XH, nó ảnh hưởng to lớn đến sự phát triển của XH. Nhiệm vụ của CSXH là căn cứ trên các yếu tố KT-XH để đề ra và thực thi biện pháp, các giải pháp làm cho con người, cho nhân dân lao động có điều kiện sống ngày càng tốt hơn về cả vật chất lẫn tinh thần. Các CSXH được xây dựng dựa trên nhu cầu hợp lý và lành mạnh của con người cả về vật chất lẫn tinh thần, dựa trên những dự báo khuynh hướng phát triển của con người, của nền kinh tế XH để khơi dậy tính tích cực, kích thích KT-XH phát triển, nó góp phần điều tiết quan hệ XH nhằm bảo đảm và thiết lập XH công bằng, văn minh, để con người chăm lo làm việc tốt cho mình và cho XH. Với ý nghĩa đó, CSXH thật sự là một nhân tố ảnh hưởng thúc đẩy sự phát triển của XH.
CSXH còn quan trọng bởi ảnh hưởng của nó đến mọi mặt của hoạt động XH mà trước hết là ảnh hưởng đến cơ cấu XH. Hiện nay bất kỳ một quốc gia nào cũng có cơ cấu XH phức tạp với nhiều nhóm XH mà vị thế, vai trò, lợi ích giữa các nhóm XH đôi khi mâu thuẫn nhau. Sự tác động nhiều mặt của kinh tế cũng làm nảy sinh các “vấn đề XH”, cơ cấu XH không còn phù hợp và đặt ra nhiều vấn đề mà đòi hỏi mọi người phải quan tâm giải quyết. Để đảm bảo XH phát triển trong sự ổn định nhất thiết phải có CSXH hợp lý và giải quyết thỏa đáng các mối quan hệ XH trên nhiều khía cạnh và lĩnh vực khác nhau như: quan hệ giữa các giai cấp, tầng lớp XH, quan hệ giữa các dân tộc trong cơ cấu XH – dân tộc đến hiện tượng diễn tiến XH: sự xuất hiện, phát triển hay sự suy thoái của mỗi nhóm, tầng lớp người trong XH, sự mất cân đối về phân bổ dân cư, sự biến chuyển về vai trò, vị trí của con người, nhóm cũng như các quan hệ giữa các giai tầng, sự vận động và biến đổi của các loại hình nghề nghiệp, với vấn đề lao động và việc làm của nguồn lao động... Chính vì vậy, CSXH có ảnh hưởng trực tiếp như một công cụ để khắc phục những phân hóa, mâu thuẫn và khác biệt XH, để điều tiết các quan hệ XH nhằm phát huy khả năng của toàn XH vào những mục tiêu chung. Nói cách khác, khi XH có “vấn đề XH” nảy sinh, tức là cơ cấu XH của XH đó không còn phù hợp để thúc đẩy XH phát triển, khi đó, cần phải điều chỉnh vào các phân hệ của cơ cấu XH bằng cách dùng các CSXH tác động vào để cho XH được công bằng, tạo môi trường tích cực cho XH phát triển và từ đó hướng tới hình thành cơ cấu XH mới phù hợp, tối ưu, đảm bảo cho XH  tồn tạị và phát triển trong sự ổn định .
Một CSXH hợp lý có ảnh hưởng tích cực đến sự phát triển XH phải luôn luôn phù hợp với điều kiện kinh tế của quốc gia vào thời điểm đó, đảm bảo sự thống nhất giữa các cơ sở XH với chính sách kinh tế tạo điều kiện để thực hiện tốt việc kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ XH. Đề ra CSXH phải căn cứ vào trình độ phát triển của kinh tế lúc bấy giờ, không nên quá cao và tất nhiên không được quá thấp để có tính khả thi cao
CSXH còn có vai trò quan trọng bởi nó luôn hướng tới sự công bằng XH, do đó tạo tính tích cực, năng động XH, làm cho XH phát triển bền vững. Tâm lý chung của XH là không sợ thiếu chỉ sợ không công bằng. Nhưng công bằng không có nghĩa là cào bằng mà phải hiểu là có sự chênh lệch hợp lý: ai cống hiến nhiều, hy sinh nhiều thì phải được hưởng lợi ích nhiều hơn.  Vì vậy, công bằng ở đây là sự cân đối mặt bằng giữa các chính sách, là giải quyết CSXH sao cho vấn đề lợi ích giữa các đối tượng có thể có chênh lệch nhưng XH chấp nhận được. Nếu không có CSXH phù hợp, giải quyết đúng đắn vấn đề mấu chốt này, có thể sẽ làm triệt tiêu các động lực XH, dẫn tới sự trì trệ và khủng hoảng XH. Bài học kinh nghiệm qua việc áp dụng một chính sách cào bằng chung chung trong thời bao cấp trước đây ở nước ta dẫn đến tình trạng khủng hỏang kinh tế trầm trọng cho thấy rõ điều đó
Trong những năm qua, trên cơ sở chủ nghĩa Mác-Lênin và kinh nghiệm các nước, quan điểm của Đảng  ta về CSXH  tập trung vào một số điểm  được xác định rõ trong các văn kiện đại hội đảng, đặc biệt là văn kiện Nghị quyết đại hội Đảng  lần IX. Đó là tăng cường kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng XH ngay trong từng bước và trong suốt quá trình phát triển XH (văn nghệ kiện Đại hội VIII, tr 113). Đó là mục tiêu của CSXH thống nhất với mục tiêu phát triển kinh tế đều nhằm phát huy sức mạnh nhân tố con người và vì con người, bên cạnh việc tập trung phát triển kinh tế đồng thời phải quan tâm giải quyết các vần đề XH. coi đây là hướng chiến lược thể hiện bản chất tốt đẹp của chế độ ta. Thực hiện nhiều hình thức phân phối, lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu, phân phối dực trên mức đóng góp khác nhau và kết quả sản xuất  kinh doanh và phân phối thông qua phúc lợi XH đi đôi với chính sách đều tiết hợp lý, bảo hộ quyền lao động. Khuyến kích làm giàu hợp pháp đi đôi với tích cực xoá đói giảm nghèo, thu hẹp dần khoản cách về trình độ phát triển, về mức sống giữa các vùng, các dân tộc và tầng lớp dân cư. Các vấn đề CSXH  đều giải quyết theo tinh thần XH hoá. Nhà nước giữ vai trò nồng cốt, đồng thời động viên mỗi người dân, các doanh nghiệp, các tổ chức trong XH, các cá nhân và tổ chức nước ngoài cùng tham gia giải quyết những vấn đề XH.
3- Bản chất và mục tiêu của CSXH.
CSXH lấy con người, các nhóm người trong cộng đồng làm đối tượng tác động để hoàn thiện và phát triển con người, lấy con người làm trung tâm, coi yếu tố con người vừa là mục đích vừa là động lực của quá trình xây dựng phát triển XH mới.
CSXH có mục tiêu cơ bản là hiệu quả XH, góp phần ổn định, phát triển và tiến bộ XH, đảm bảo cho mọi người được sống trong tình thân ái, bình đẳng và công bằng… Do vậy CSXH mang tính XH, tính nhân nhân văn và nhân đạo sâu sắc. Mọi CSXH đều phải hướng vào sự công bằng XH. Nó trở thành công cụ sắc bén của Nhà nước để điều chỉnh các quan hệ XH, xây dựng chuẩn mực XH và định hướng giá trị XH mới, hướng vào cái thiện, cái tốt, đẩy lùi và hạn chế cái ác, cái xấu trong XH.
CSXH của Nhà nước là tạo ra những điều kiện và cơ hội thuận lợi để mọi người phát triển hòa nhập vào cộng đồng, tuy vậy trong XH không ít người rơi vào hoàn cảnh và điều kiện bất lợi, do đó họ thiếu điều kiện vào và cơ hội để phát triển. Do vậy CSXH còn thể hiện trách nhiệm XH cao, hướng vào trợ giúp, tạo điều kiện cho mọi người vươn lên hòa nhập vào cộng đồng, tạo nên một lưới an toàn XH. CSXH bao giờ cũng quan tâm đến số phận của những con người cụ thể, quan tâm đến những cá nhân sống trong những điều kiện thiệt thòi, khó khăn so với mặt bằng chung của XH lúc bấy giờ. Tạo điều kiện cho những cá nhân đó phát huy những khả năng vốn có của mình vươn lên hoà nhập với XH.
CSXH để thực hiện đúng mục tiêu, đối tượng bao giờ cũng có cơ chế hoạt động, bộ máy nhân sự, chương trình dự án và kinh phí hoạt động riêng của nó.
4- Các loại CSXH.
Tùy theo tiêu chí, ta có các loại chính sách XH khác nhau.
+ Xét ở tính phổ biến (gọi là chính sách XH phổ biến), có: chính sách dân số, chính sách lao động và việc làm, chính sách bảo đảm XH (BHXH, cứu trợ XH, ưu đãi XH), chính sách phòng chống tội phạm và tệ nạn XH.
+ Xét theo giai cấp, tầng lớp XH (chính sách XH với các giai tầng XH), có: chính sách XH với các giai tầng XH), có: CSXH đối với giai cấp công nhân; CSXH  đối với giai cấp nông dân; CSXH đối với tầng lớp trí thức và sinh viên; CSXH đối với tầng lớp chủ doanh nghiệp tư nhân …
+ Xét theo giới đồng bào (CSXH đối với các giới đồng bào), có các chính sách đối với thanh niên, phụ nữ và gia đình, các dân tộc thiểu số, tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài ….
+ Theo đối tượng, tính chất và phạm vi có các CSXH được tính đến, được lồng ghép, được xây dựng trong khi hoạch định và thực hiện chính sách KT: CSXH cơ bản, chung cho mọi đối tượng trong cộng đồng (chính sách giáo dục, y tế, bảo hiểm …); CSXH cấp bách để tập trung giải quyết một số vấn đề XH gay cấn (chính sách việc làm, xóa đói giảm nghèo …); CSXH cho một số đối tượng đặc biệt (người già cô đơn, tàn tật ….).
5- Cơ sở khoa học đối với CSXH.
Phân tích các cơ sở khoa học của việc hoạch định và thực hiện CSXH (trong đó chú ý phân tích mối quan hệ chính sách XH với kinh tế).
Đối tượng cụ thể của chính sách xã hội là các tầng lớp nhân dân trong xã hội như: công nhân, nông dân, thợ thủ công, sinh viên trí thức, nhà doanh nghiệp, trẻ em, người gìa, thành niên, phụ nữ, các dân tộc, các tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, những bậc lão thành cách mạng, thương binh, liệt sĩ, những bà mẹ Việt Nam anh hùng…. Đó là những nhóm, những thành viên rơi vào tình cảnh của vấn đề xã hội như bị tai nạn, thất nghiệp, nghèo đói, bất bình đẳng về kinh tế, chính trị, chịu nhiều bất công, thiệt thòi, rủi ro...
Mục tiêu của CSXH là nhằm đạt tới sự công bằng an toàn, tạo điều kiện phát triển con người một cách toàn diện. Để làm được điều đó, CSXH có một số nhiệm vụ cơ bản là: Một là, tái tạo tiềm năng nhân lực của đất nước thông qua các chính sách về dân số, gia đình, bảo vệ sức khoẻ, bảo hộ lao động, tổ chức nghỉ ngơi giải trí, khắc phục các tệ nạn XH, bảo đảm an toàn XH. Hai là, góp phần vào việc xây dựng  nền tảng vững chắc XH với các chính sách về nhà ở, bảo vệ môi trường sinh thái, sự phát triển văn hóa, giáo dục khoa học, nghệ thuật... bảo đảm phát triển bền vững của XH. Ba là, nâng cao dân trí, đào tạo nhân tài cho đất nước, tạo thêm nhiều việc làm cho các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là thanh niên, đào tạo lại và đào tạo mới người lao động để tiếp thu kỹ thuật, công nghệ hiện đại và không ngừng nâng cao năng suất lao động. Bốn là, tạo đều kiện cho XH ngày càng có nhiều khả năng và biết tiêu thụ những sản phẩm vật chất, tinh thần một cách đúng đắn, tiết kiệm, phù hợp với trình độ phát triển sức sản xuất của đất nước và những chuẩn mực đạo đức pháp lý của chế độ XH mới. Năm là, tạo lập, hình thành mô hình lối sống mới theo hướng phát triển toàn diện của cá nhân kết hợp hài hoà với sự phát triển của công đồng trên cơ sở kế thừa những giá trị truyền thống đẹp của dân tộc, đồng thời xây dựng những giá trị mới phù hợp với bản sắc dân tộc và yêu cầu của thời đại.
Cơ sở khoa học cho việc xây dựng và thực hiện chính sách xã hội chính là mục đích vì con người. Đó vừa là những điều kiện chung nhất cho sự phát triển toàn diện của mỗi cá nhân, của từng nhóm và của toàn xã hội, vừa là những điều kiện cần thiết giúp cho các đối tượng xã hội bị thiệt thòi có thể sống ở mức tối thiểu mà xã hội cho phép. Do vậy, trong việc hoạch định và thực thi CSXH, cần phải căn cứ vào cơ cấu xã hội, tác động vào cơ cấu XH để duy trì hay làm biến đổi nó theo hướng đạt được một cơ cấu XH tối ưu, bảo đảm sự phát triển XH trong sự ổn định. Các phân hệ cơ cấu XH cần quan tâm là: cơ cấu XH giai cấp, cơ cấu XH nghề nghiệp, cơ cấu XH lãnh thổ, cơ cấu XH dân số, cơ cấu XH dân tộc, cơ cấu XH tôn giáo.
Khi đề ra và vận dụng chính sách xã hội phải căn cứ vào trình độ phát triển kinh tế, điều kiện chính trị, đường lối đối nội, đối ngoại và truyền thống lịch sử dân tộc. Nếu chính sách xã hội vượt quá khả năng kinh tế thì trước sau nó cũng kìm hãm sự phát triển chung của xã hội bởi nó sẽ ảnh hưởng đến thu nhập và đến nhiều mặt khác trong đời sống xã hội. Nếu chính sách xã hội đạt hậu quả xa so với trình độ phát triển kinh tế thì chẳng những không góp phần điều hòa những mâu thuẫn hay những bất đồng trong xã hội mà còn làm gia tăng nhưng mâu thuẫn ấy.
Để hoạch định CSXH phải nghiên cứu mối quan hệ giữa CSXH và chính sách phát triển kinh tế. Đó chính là mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế, thực hiện công bằng và thúc đẩy tiến bộ XH. Một chính sách kinh tế đúng có thể làm tăng công bằng ngay trong giai đoạn đầu của sự phát triển. Công bằng XH được coi là hạt nhân của CSXH, là cái đích, là mục tiêu của CSXH từng bước phải đạt tới. Tất nhiên, công bằng XH ở đây được hiểu là thái độ ứng xử hợp lý trong điều hoà các quan hệ XH, đặc biệt là sự công bằng trong phân phối của cải XH và điều hoà các lợi ích giữa các nhóm ,các tầng lớp trong XH.Tức là sự ứng xử, phân xử giải quyết đúng với điều kiện khách quan, không phải là sự ‘’cào bằng’’ lợi ích theo quan điểm bình quân chủ nghĩa mà là có sự khác biệt hợp lý. Trình độ phát triển kinh tế là điều kiện vật chất để thực hiện các mục tiêu XH. Chỉ có thực tốt chính sách kinh tế mới có thể nâng cao cơ sở vật chất để thực CSXH.
Thực tế cho thấy CSXH tốt tác động rõ rệt đến việc thực hiện các mục tiêu kinh tế, năng suất và chất lượng lao động. Sự thống nhất giữa chính sách kinh tế và CSXH còn thể hiện ở chỗ xét đến cùng, CSXH không bao giờ có thể thoát ly được mức độ và trình độ phát triển kinh tế mà XH đạt được. Song điều này còn phục thuộc vào bản chất và chế độ chính trị-XH ,vào năng lực quản lý của nhà nước trong việc tạo điều kiện kết hợp tối ưu sự phát triển kinh tế với việc thoả mãnngày càng cao sự phát triển toàn diện của con người.
Tóm lại, CSXH và chính sách kinh tế là một thể thống nhất. Sự thống nhất đó được xác định ở quan hệ hợp lý giữa chúng, mà ở đó sự kết hợp giữa chính sách kinh tế và CSXH là tối ưu nhất, có tác động tích cực thúc đẩy sự phát triểnvà tiến bộ XH. Sự kết hợp đó dựa trên nguyên tắc; chính sách kinh tế phải tìm được động lực trong XH và bão đảm ổn định XH; ngược lại ,CSXH phải thúc đẩy kinh tế phát triển và phù hợp với điều kiện kinh tế cho phép.         
Ngoài ra, khi đề ra chính sách xã hội phải căn cứ vào truyền thống lịch sử văn hóa dân tộc bởi vì các mối quan hệ xã hội ít nhiều đều được xây dựng trên những mẫu hình văn hóa xác định. Những định hướng giá trị của một nền văn hóa chi phối nhiều hành vi ứng xử mỗi người, mỗi nhóm và tập đoàn người. Do vậy, việc đề ra và thực hiện chính sách xã hội không thể không chú ý đến đặc điểm lịch sử và truyền thống văn hóa mỗi quốc gia, mỗi dân tộc, thậm chí mỗi vùng chính sách xã hội phải kế thừa và phát huy những giá trị của chủ nghĩa nhân văn và truyền thống tốt của văn hóa dân tộc là những tinh hoa mà lịch sử hàng ngàn năm cha ông đã tích lũy được.
Chính sách xã hội phải được thực hiện theo phương châm xã hội hóa, Nhà Nước đóng vai trò chủ đạo, phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn xã hội
6. Mục tiêu và quan điểm của Đảng về xây dựng và phát triển đất nước thời kỳ đổi mới.
Trong công cuộc đổi mới hiện nay của đất nước ta, thực hiện CSXH đúng đắn là động lực to lớn phát huy mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân trong công cuộc xây dựng đất nước. Những năm qua, song song với việc đẩy nhanh phát triển kinh tế, Đảng và nhà nước ta cũng hết sức quan tâm đến CSXH và nhờ có những quan điểm đúng đắn, hợp lý trong việc xây dựng và thực thi các CSXH mà đất nước ta đã đạt được những thành tựu lớn về phát triển kinh tế lẫn nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân, tạo điều kiện ngày càng tốt hơn cho việc phát triển nhân cách, phẩm chất, năng lực, trí tuệ và thể chất con người Việt Nam. Những kết quả mà CSXH mang lại đồng thời cũng phản ánh bản chất và tính ưu việt của chế độ ta, góp phần không nhỏ vào việc giữ vững sự ổn định và phát triển XH.
Bước vào thời kỳ đổi mới CSXH được Đảng và Nhà nước quan tâm thực hiện ngày càng tốt hơn. Vấn đề XH đã được tính đến nhiều hơn trong những phương án phát triển kinh tế XH. CSXH  được nhận thức một cách toàn diện, phong phú trên cả tầm vĩ mô và vi mô. Nhân tố con người và sắc thái cá nhân được coi trọng. Khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, có một số vấn đề XH nổi lên rất gây gắt và bức xúc cần phải có chính sách giải quyết, nếu không sẽ dẫn đến hậu quả XH nghiêm trọng, thậm chí gây mất ổn định về kinh tế, chính trị và an toàn XH.
Vấn đề lao động và việc làm: Giải quyết việc làm là một trong những CSXH cơ bản của quốc gia và đây là một vấn đề bức xúc của XH nước ta hiện nay bởi hiện tại tỷ lệ người thất nghiệp ở nước ta cao từ 9-12% lực lượng lao động, đây là số lao động dư dôi trong quá trình tổ chức sắp xếp nền kinh tế thị trường. Hàng năm lại có thêm một triệu người đến tuổi lao động, số người hợp tác lao động về nước tạo áp lực không nhỏ trong việc giải quyết việc làm. Biện pháp tạo việc làm: khuyến kích các thành phần kinh tế, phát triển, khuyến kích đầu tư phát triển sản xuất để tạo việc làm, phát triển dịch vụ việc làm, phân bố lại dân cư và lao động trên cả nước, mở rộng kinh tế đối ngoại, đẩy mạnh xuất khẩu lao động, còn ở nông thôn chú ý khôi phục mở rộng ngành nghề truyền thống...
Vấn đề xoá đói giảm nghèo: Hiện tượng phân tầng XH và phân hoá giàu nghèo xuất hiện ngày càng gay gắt và phổ biến. Do khoảng cách giàu nghèo ngày càng lớn kéo theo hàng loạt những vấn đề XH như: sự khác biệt về mức sống, lối sống, cách sinh hoạt và tâm lý. Một bộ phận người giàu lên nhanh chống và cũng có một bộ phận người trở nên quá nghèo, do thiên tai rủ ro, côi đơn không nơi nương tực... Do đó cách duy nhất để rút ngắn khoảng cách giàu nghèo là xoá đói giảm nghèo, Nhà nước đã và đang triển khai thực hiện chính sách xoá đói giảm nghèo, động viên toàn XH tham gia phong trào xoá đói giảm nghèo giúp những người khó khăn về vốn, vật tư, kỹ thuật, kinh nghiệm sản xuất đồng thời thực hiện chính sách phúc lợi XH, chính sách thuế thu nhập...để rút ngắn khoảng cách giàu nghèo.
CSXH về hệ thống giáo dục, y tế: trong thời kỳ cơ chế thị trường, kinh phí đầu tư cho giáo dục bị giảm nhiều nên giáo dục có nhiều khó khăn ở các cấp học, số người đi học giảm vì một số con em gia đình nghèo khó không có điều kiện đi học, hiện tượng thương mại hóa giáo dục đang có xu hướng gia tăng, chất lượng giáo dục giảm sút, đối với giáo viên chưa có chế độ lương thích hợp ... Những vấn đề trên đòi hỏi phải có chính sách ưu tiên cho giáo dục nhất là đối với vùng sâu, vùng xa, phải xây dựng một chế độ phúc lợi thích hợp cho giáo viên và  giảm, miễn học phí đối với học sinh nghèo. Đối với hệ thống Y tế cần củng cố và nâng cao chất lượng chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân, kiện toàn hệ thống bảo hiểm Y tế, lập quỹ Y tế, giành cho người nghèo vùng sâu, vùng xa cần có chính sách chăm lo, chính sách đời sống của các cán bộ y tế.
Vấn đề dân số kế hoạch hoá gia đình: Mức tăng dân số hàng năm ở nước ta vẫn còn cao và gây áp lực đối với kinh tế XH. Chính sách áp dụng đối với vấn đề dân số kế hoạch hoá gia đình liên quan đến nhiều chính sách khác. Cần có biện pháp đẩy mạnh tuyên truyền về công tác dân số có biện pháp hành chính nghiên khắc đối với những người vi phạm chính sách. Bên cạnh đó có kế hoạch phân bố dân cư hợp lý để giảm tốc độ tăng dân số quá nhanh ở những vùng sâu, vùng xa, các vùng lt mới ở các vùng đất rộng ít ngừơi. Cần tính toán đầy đủ đến yếu tố tâm lý, tập quán, phong tục để có chính sách thích hợp, tuyên truyền bài trừ tân lý lạc hậu trọng nam khinh nữ, trời sinh voi thì trời sinh cỏ ...
Vấn đề tệ nạn XH, mại dâm, nghiện hút, trộm cướp, rượu chè, cờ bạc, tham nhũng... những tệ nạn này gia tăng đến mức lo ngại. cần huy động sức mạnh của toàn dân, tất cả các ngành, các cấp chính quyền để đẩy lùi, ngăn chặn. Đồng thời phải sử dụng dư luận XH để phòng chống, ngăn ngừa và tăng cường giáo dục, tuyên truyền chống tệ nạn này trong toàn XH, tăng cường các biện pháp cưỡng bức hành chính, xử lý nghiêm minh những tên buôn bán ma tuý, tổ chức mại dâm tham nhũng.
Tóm lại: CSXH  được xác định là động lực phát triển và nói lên bản chất của XH ta. Áp dụng một “CSXH  đúng đắn vì hạnh phúc con người là động lực to lớn phát huy mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng CNXH”. (Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa XH, trang 86) chính là điều kiện đảm bảo sự thành công của công cuộc xây dựng CNXH ở nước ta hiện nay.




(6) Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết của Bộ chính trị số 07/NQ-TƯ Về hội nhập kinh tế quốc tế, Nxb CTQG, Hà Nội 2002, tr. 2-4
[1] Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Hội nghị lần thứ năm khóa VIII, Nxb CTQG, H.1998, tr.54-55.
[2] Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội XI, Sđ d, tr.76.
[3] Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, H.2006, tr.106.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét