29 tháng 3, 2013

BỘ ĐỀ THI TT HCM


Câu 1.           Tư tưởng Hồ Chí Minh là gì? Hiện nay Đảng ta đặt ra yêu cầu gì đối với việc học tập và làm theo tư tưởng Hồ Chí Minh? Liên hệ bản thân đồng chí.
Câu 2.           Vì sao độc lập dân tộc gắn liền với CNXH là nội dung cốt lõi trong tư tưởng Hồ Chí Minh? Đảng và nhân dân ta thực hiện tư tưởng này như thế nào trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay? Liên hệ bản thân đồng chí.
Câu 3.           Tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại? Bài học này có ý nghĩa như thế nào đối với Đảng và nhân dân ta hiện nay? Liên hệ bản thân đồng chí.
Câu 4.           Những nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam? Trong nhiệm vụ xây dựng Đảng, chỉnh đốn Đảng hiện nay, Đảng ta đãn vận dụng tư tưởng này như thế nào? Liên hệ bản thân đồng chí.
Câu 5.           Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của dân, do dân, vì dân? Đảng ta đã vận dụng tư tưởng này như thế nào để xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân hiện nay ở nước ta? Liên hệ bản thân đồng chí.
Câu 6.           Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận? Làm thế nào để phát huy tư tưởng dân vận của Hồ Chí Minh vào công tác vận động quần chúng hiện nay? Liên hệ bản thân đồng chí.
Câu 7.           Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng? Vì sao hiện nay Đảng ta chủ trương tích cực học tập, nỗ lực làm theo tư tưởng và tấm gương đạo đức cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh? Liên hệ bản thân đồng chí.
Câu 8.           Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa? Phân tích Đảng ta đã vận dụng tư tưởng văn hóa của Hồ Chí Minh như thế nào để đề ra mục tiêu xây dựng nền văn hóa Việt Nam  tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc làm nền tảng tinh thần xã hội? Liên hệ bản thân đồng chí.
Câu 9.           Trước đòi hỏi của thực tiễn hiện nay trong sự nghiệp xây dựng và đổi mới CNXH. Đảng ta cần làm gì để tiếp tục học tập, vận dụng bổ sung những giá trị mới cho tư tưởng Hồ Chí Minh? Liên hệ bản thân đồng chí.
Câu 10.      Phân tích những giá trị bền vững trong tư tưởng Hồ Chí Minh đã được Đảng ta xác định và cần phải làm gì để tư tưởng Hồ Chí Minh tiếp tục thấm sâu vào trong thực tiễn cách mạng Việt Nam? Liên hệ bản thân đồng chí.

12 tháng 3, 2013

‘Không phải xin lỗi dân là xong’


‘Không phải xin lỗi dân là xong’
Khi Đảng lãnh đạo đúng đắn, thành công thì không sao nhưng khi có khuyết điểm thì trách nhiệm thế nào - TS Nguyễn Việt Hùng, nguyên Trưởng khoa Xây dựng Đảng, trường Cán bộ TP.HCM băn khoăn.

Ngày 11/3, trường Cán bộ TP.HCM tổ chức hội thảo góp ý kiến vào dự thảo sửa đổi Hiến pháp với sự tham gia của các thầy cô giáo, chuyên gia, nhà khoa học… trong và ngoài nhà trường. Nhiều ý kiến xoay quanh việc lý giải, làm rõ thêm vai trò, trách nhiệm lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội.
Lòng tin

Nói về vai trò lãnh đạo của Đảng được thể hiện ở điều 4 dự thảo sửa đổi Hiến pháp, hầu hết đại biểu khẳng định đã trình bày minh bạch, cụ thể và rõ ràng hơn. Tuy nhiên, họ đề nghị lần sửa đổi Hiến pháp này cần làm rõ hơn sự kiểm tra, giám sát của nhân dân đối với Đảng, đặc biệt là trách nhiệm của Đảng trước nhân dân và dân tộc, phải có một luật về sự lãnh đạo của Đảng.

Nguyên Phó hiệu trưởng trường Cán bộ TP.HCM Nguyễn Sỹ Nồng đặt vấn đề, lòng tin của nhân dân đối với Đảng hiện nay như thế nào? 
Ông Nguyễn Sỹ Nồng: Dân rất bức xúc khi "một bộ phận không nhỏ" cán bộ, đảng viên tham nhũng

Công cuộc đổi mới đạt được những thành tựu, lòng tin của dân đối với Đảng được củng cố nhưng dân cũng rất bức xúc khi “một bộ phận không nhỏ” cán bộ, đảng viên quan liêu, tham nhũng, suy thoái chính trị tư tưởng, đạo đức, lối sống.

Ông Nồng cho rằng, chỉ riêng về số lượng thì lúc đầu thường nói là "một số ít", rồi "một số", "một bộ phận" và nay là "một bộ phận không nhỏ"… “Nếu không làm quyết liệt, không đẩy lùi được thì sẽ dẫn đến ‘một bộ phận lớn’ hay ‘đa số’ thì điều gì diễn ra sẽ khó lường”, ông nói.

Còn về tính chất - vẫn theo ông Nồng - đang tinh vi, phức tạp hơn, nghiêm trọng hơn, thực sự trở thành "nguy cơ lớn" liên quan đến sự tồn vong của chế độ. Từ đó, ông đi đến kết luận, nếu Đảng để mất lòng tin của dân thì không thê là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội như dự thảo quy định. Do đó, ông mong muốn lần sửa Hiến pháp này cần phải có luật hóa sự lãnh đạo của Đảng.

Đồng tình với ý kiến này, TS Nguyễn Việt Hùng - nguyên Trưởng khoa Xây dựng Đảng của trường băn khoăn, khi Đảng lãnh đạo đúng đắn và thành công thì không sao nhưng khi có khuyết điểm thì phải giải quyết trách nhiệm đó ra sao? “Đảng không chỉ xin lỗi dân là xong. Mà điều này cần có quy định mang tính hiến định để trách nhiệm đó được minh bạch”, ông Hùng nói.
Ông Nguyễn Việt Hùng: Đảng không chỉ xin lỗi dân là xong.

Do vậy, ông đề nghị sửa đổi Hiến pháp lần này cần thêm một nội dung nữa quy định trong điều 4: “Các tổ chức của Đảng, đảng viên của Đảng Cộng sản Việt Nam khi vi phạm pháp luật phải bị xét xử theo quy định của pháp luật”.
Công khai trách nhiệm

Viện dẫn điều 4 trong dự thảo sửa đổi có một nội dung mới “Đảng chịu sự giám sát của nhân dân” rất đúng và cần thiết nhưng nhà giáo ưu tú Hồ Thanh Khôi - nguyên Trưởng khoa Xây dựng Đảng cho rằng, quy định như thế là chưa đủ, chưa rõ.

Do đó, ông Khôi đề nghị thêm nội dung “quyền được phản biện” của nhân dân đối với hoạt động của Đảng và Nhà nước. Cụ thể, “Đảng chịu sự giám sát và phản biện của nhân dân”.

“Có sự giám sát và phản biện, hoạt động lãnh đạo của Đảng sẽ công khai, minh bạch, phát huy được quyền làm chủ của dân, sẽ tránh được những hạn chế, khuyết điểm của cá nhân hay nhóm lợi ích không chính đáng”, ông Khôi nói.

Nhưng giám sát và phản biện như thế nào, theo cơ chế nào, với nội dung và hình thức nào? Giám sát trực tiếp, gián tiếp hay qua một tổ chức trung gian là Mặt trận Tổ quốc? Đó là điều băn khoăn mà ông đề nghị làm rõ.

Theo ông Khôi, để quyền giám sát và phản biện của nhân dân đối với những quyết định của Đảng được cụ thể và được luật pháp bảo vệ thì phải có một luật về sự lãnh đạo của Đảng. “Luật sẽ làm rõ trách nhiệm của Đảng tới đâu đối với một quyết định, quyết định đúng hay sai, phục vụ nhân dân hay phục vụ cho lợi ích cá nhân, lợi ích nhóm. Trách nhiệm đó phải được công khai”.

Ông Khôi cũng đồng tình, Đảng phải có chịu trách nhiệm bằng những điều luật riêng chứ không chỉ xin lỗi với dân là xong.

“Nếu quyết định có vấn đề, thậm chí sai, thì trách nhiệm của Đảng tới đâu? Xử lý giải quyết ra sao? Hay chỉ là lời xin lỗi với nhân dân là xong. Đây là một lý do nữa cho thấy rất cần có một luật về sự lãnh đạo của Đảng”, ông nói.
  • Tá Lâm

7 tháng 3, 2013

Thảo luận lần 2 môn Đường lối

Câu 1.           Những vấn đề chung về nguồn lực kinh tế.
- KHÁI NIỆM 
Nguồn lực là tổng thể vị trí địa lí, các nguồn tài nguyên thiên nhiên, hệ thống tài sản quốc gia, nguồn nhân lực, đường lối chính sách, vốn và thị trường... ở cả trong nước và nước ngoài có thể được khai thác nhằm phục vụ cho việc phát triển kinh tế của một lãnh thổ nhất định. 
Nguồn lực không phải là bất biến. Nó thay đổi theo không gian và thời gian. Con người có thể làm thay đổi nguồn lực theo hướng có lợi cho mình. 
II - PHÂN LOẠI NGUỒN LỰC 
1.    Căn cứ vào nguồn gốc
2.    Căn cứ vào phạm vi lãnh thổ 
Căn cứ vào phạm vi lãnh thổ, có thể phân chia nguồn lực thành hai loại:
a)   Nguồn lực trong nước 
Nguồn lực trong nước (còn gọi là nội lực) bao gồm các nguồn lực tự nhiên, nhân văn, hệ thống tài sản quốc gia, đường lối chính sách đang được khai thác, 
Nguồn lực trong nước đóng vai trò quan trọng, có tính chất quyết định trong việc phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. 
b)   Nguồn lực nước ngoài 
Nguồn lực nước ngoài (còn gọi là ngoại lực) bao gồm khoa học - kỹ thuật và công nghệ, nguồn vốn, kinh nghiệm về tổ chức và quản lý sản xuất và kinh doanh... từ nước ngoài. 
Nguồn lực nước ngoài có vai trò quan trọng, thậm chí đặc biệt quan trọng đối với nhiều quốc gia đang phát triển ở những giai đoạn lịch sử cụ thể. 
Mặc dù có vai trò khác nhau, nhưng giữa nguồn lực trong nước và nguồn lực nước ngoài có mối quan hệ mật thiết với nhau. Đây là mối quan hệ hỗ trợ, hợp tác, bổ sung cho nhau trên nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi và tôn trọng độc lập chủ quyền của nhau. Xu thế chung là các quốc gia cố gắng kết hợp nguồn lực trong nước (nội lực) với nguồn lực nước ngoài (ngoại lực) thành sức mạnh tổng hợp để phát triển kinh tế nhanh và bền vững.