25 tháng 10, 2012

CNXH Khoa học


CHƯƠNG I

VỊ TRÍ , ĐỐI TƯỢNG, PHƯƠNG PHÁP VÀ CHỨC NĂNG CỦA  CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
I.  VỊ TRÍ CỦA CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
Các nhà sáng lập ra chủ nghĩa Mác-Lênin đã sử dụng hai thuật ngữ  “chủ nghĩa xã hội khoa học” hoặc “chủ nghĩa cộng sản khoa học”. Hai thuật ngữ này về cơ bản là thống nhất về ý nghĩa. Hiện nay chúng ta sử dụng thuật ngữ   “chủ nghĩa xã hội khoa học “
1. Khái  niệm  chủ nghĩa xã hội khoa học
Chủ nghiã xã hội khoa học” xét về mặt lý luận nó nằm trong khái niệm “chủ nghĩa xã hội”. Là một trong ba bộ phận hợp thành chủ nghĩa Mác-Lênin, “Chủ nghiã xã hội khoa học” có những đặc điểm sau :
Một là : Chủ nghĩa xã hội khoa học dựa vào những cơ sở khoa học chỉ rõ con đường, điều kiện, biện pháp, để thủ tiêu tình trạng người bóc lột người, xây dựng một xã hội mới, tốt đẹp hơn so với Chủ nghĩa tư bản.
Hai là : Chủ nghiã xã hội khoa học dựa vào những kết luận của Triết học và Kinh tế học chính trị  Mác-Lênin để luận giải những quy luật chính trị - xã hội của quá trình chuyển biến từ chủ nghĩa tư bản, từ các chế độ tư hữu lên chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản.
          Ba là : Chủ nghiã xã hội khoa học là thế giới quan, là hệ tư tưởng chính trị của giai câp công nhân, biểu hiện lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động trong quá trình xây dựng xã hội mới.
Bốn là : Chủ nghiã xã hội khoa học là khoa học tổng kết kinh nghiệm đâu tranh của giai cấp công nhân, cách mạng xã hội chủ nghĩa, phong trào dân chủ của quần chúng, cách mạng dân chủ tư sản và cách mạng giải phóng dân tộc, để tìm ra xu hướng, con đường, lực lượng, biện pháp nhằm giải phóng giai cấp công nhân, nhân dân lao động và thúc đẩy xã hội phát triển
 2.  Vị trí của chủ nghĩa xã hội khoa học
Một là, với ý nghĩa là tư tưởng, lý luận, chủ nghĩa xã hội khoa học nằm trong quá trình phát triển  các sản phẩm tư tưởng, lý luận mà loài người đã sáng tạo ra. Đặc biệt, trong  lĩnh vực khoa học xã hội và chính trị - xã hội, chủ nghĩa xã hội khoa học là một trong những đỉnh cao nhất .
Hai là, chủ nghĩa xã hội khoa học là tư tưởng, lý luận bàn về chủ nghĩa xã hội, do đó nó nằm trong quá trình phát triển lịch sử tư tưởng xã hội chủ nghĩa của nhân loại. Nó kế thừa, phát triển những giá trị tích cực của chủ nghĩa xã hội không tưởng, loại bỏ các yếu tố không tưởng, tìm ra những quy luật, tính quy luật của quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa nhằm giải phóng giai cấp công nhân, giải phóng con người, giải phóng xã hội .
Ba là, là một trong ba bộ phận hợp thành học thuyết Mác-Lênin, chủ nghĩa xã hội khoa học thường hiểu theo hai nghĩa :               
Nghĩa hẹp : Chủ nghĩa xã hội khoa học là một trong ba  bộ phận hợp thành chủ nghĩa Mác-Lênin, nó dựa trên cơ sở của Triết học và Kinh tế học chính trị Mác-Lênin để luận giải một cách khoa học về quá trình nảy sinh cách mạng xã hội chủ nghĩa, về sự  hình thành, phát triển hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa, gắn liền với sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, nhằm giải phóng giai cấp công nhân, giải phóng con người, giải phóng xã hội.
Nghĩa rộng : Chủ nghĩa xã hội khoa học được hiểu là chủ nghĩa Mác-Lênin. Bởi vì, suy cho cùng cả Triết học, Kinh tế học chính trị Mác - Lênin và chủ nghĩa xã hội khoa học đều luận giải tính tất yếu của cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa, mà người lãnh đạo, tổ chức thực hiện sự nghiệp cách mạng ấy là giai cấp công nhân hiện đại, thông qua chính Đảng của nó. Trong ba bộ phận hợp thành chủ nghĩa Mác-Lênin, chủ nghĩa xã hội khoa học là bộ phận trực tiếp luận giải về giai cấp công nhân và chính Đảng của nó, luận giải về “sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân”. Với ý nghĩa như vậy, cho nên có thể hiểu chủ nghĩa xã hội khoa học là chủ nghĩa Mác (hay chủ nghĩa Mác-Lênin). Lê nin đã xác định : “bộ tư bản – tác phẩm chủ yếu và cơ bản ấy trình bày chủ nghĩa xã hội khoa học…những yếu tố từ đó nảy sinh ra chế độ tương lai”.
Vì vậy, khi nghiên cứu giảng dạy, học tập Triết học, Kinh tế học chính trị  Mác-Lênin  mà không luận chứng cuối cùng dẫn đến sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, dẫn đến chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản là biểu hiện của sự chệch hướng  trong quá trình giáo dục Chủ nghĩa Mác-Lênin. 
II. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU VÀ PHẠM VI KHẢO SÁT, ỨNG DỤNG CỦA CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC

1. Triết học và kinh tế học chính trị Mác - Lênin là cơ sở lý luận của chủ nghĩa xã hội khoa học
 Triết học Mác-Lênin có đối tượng nghiên cứu là những quy luật chung nhất của tự nhiên - xã hội và tư duy, của các hình thái kinh tế – xã hội. Nó là thế giới quan, nhân sinh  quan của giai cấp công nhân hiện đại. Vì thế nó trở thành cơ sở lý luận và phương pháp luận chung cho chủ nghĩa xã hội khoa học.
Kinh tế học chính trị Mác-Lênin đối tượng nghiên cứu là những quy luật kinh tê – xã hội, hình thành, phát triển trong quá trình sản xuất, tái sản xuất ra của cải vật chất, trong quá trình phân phối, trao đổi, tiêu dùng những của cải đó. Đặc biệt là những quy luật kinh tế - xã hội trong chế độ tư bản chủ nghĩa, những quy luật trong quá trình chuyển biến tất yếu lên chủ nghĩa xã hội và quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội
Chủ nghĩa xã hội khoa học phải dựa trên những cơ sở của Triết học, Kinh tế học chính trị Mác-Lênin thì mới làm rõ những quy luật, tính quy luật của những vấn đề mà Chủ nghĩa xã hội khoa học nghiên cứu ở phạm vi mỗi nước và phạm vi thế giới trong thời đại ngày nay.

2. Đối tượng nghiên cứu của chủ nghĩa xã hội khoa học.
   Chủ nghĩa xã hội khoa học nghiên cứu những quy luật và tính quy luật  chính trị - xã hội  của quá trình phát sinh, hình thành và phát triển hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa; nghiên cứu những nguyên tắc, điều kiện, con đường, hình thức và phương pháp đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân để thực hiện thắng lợi sự chuyển biến từ chủ nghĩa tư bản (và các chế độ tư hữu) lên chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản.
Sự chuyển biến lên chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản là quy luật khách quan của xã hội loài người. Song nó không  diễn ra một cách tự nhiên mà phải thông qua hoạt động có ý thức của con người. Nhân tố người ở đây trước hết là giai cấp công nhân hiện đại. Với ý nghĩa đó chủ nghĩa Mác-Lênin đã khái quát : “ Chủ nghĩa cộng sản … là sự biểu hiện lý luận của lập trường của giai cấp vô sản”, “sự khái quát lý luận về những điều kiện giải phóng của giai cấp vô sản”(1) gắn với giải phóng con người, giải phóng xã hội.
Chủ nghĩa xã hội khoa học có một hệ thống các phạm trù, khái niệm và những vấn đề mang tính quy luật rất cơ bản như : giai cấp công nhân, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân (gắn với Đảng Cộng sản); hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa (đặc biệt là giai đoạn chủ nghĩa xã hội); cách mạng xã hội chủ nghĩa;  nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và nhà nước xã hội chủ nghĩa; liên minh công nông và các tầng lớp lao động; vấn đề dân tộc, tôn giáo,  gia đình. . .
3. Phạm vi khảo sát và vận dụng của chủ nghĩa xã hội khoa học
Phạm vi khảo sát của chủ nghĩa xã hội khoa học là những tư liệu thực tiễn, thực tế. Do đó khi khảo sát, vận dụng nguyên lý  của chủ nghĩa xã hội khoa học phải gắn với thực tế, thực tiễn một cách chủ động, sáng tạo. Những vấn đề chính trị - xã hội giữa các giai cấp, tầng lớp, giữa các quốc gia, dân tộc…thường là phức tạp hơn nhiều so với những vấn đề của các khoa học xã hội khác.
Phạm vi khảo sát của chủ nghĩa xã hội khoa học là những vấn đề cơ bản sau :
        Những thành tựu và sai lầm trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội; quá trình cải tổ, cải cách dẫn tới  sụp đổ chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô, Đông Âu; quá trình cải cách, đổi mới  thắng lợi ở một số nước xã hội chủ nghĩa …từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm, khái quát thành lý luận về con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội ở mỗi nước, qua đó bổ sung làm sáng tỏ hơn nữa  những nguyên lý của chủ nghĩa xã hội khoa học.
Đảng ta nhấn mạnh phải “Vận dụng sáng tạo lý luận, phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh để nghiên cứu phát triển chủ nghĩa xã hội khoa học”(1)
III. PHƯƠNG PHÁP CỦA CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
1. Phương pháp luận chung
Khi nghiên cứu chủ nghĩa xã hội khoa học phải sử dụng phương pháp luận chung của Triết học Mác-Lênin thì  chủ nghĩa xã hội khoa học mới  luận giải đúng đắn, khoa học về sứ mệnh lịch sử  của giai cấp công nhân, về quá trình phát sinh, hình thành, phát triển hình thái kinh tế – xã hội cộng sản chủ nghĩa và các khái niệm, phạm trù của chủ nghĩa xã hội khoa học
2. Phương pháp đặc trưng của chủ nghĩa xã hội khoa học.
     Thứ nhất : Phương pháp kết hợp lịch sử- lôgíc. Đây là  nội dung của phương pháp luận Triết học Mác-Lênin, đồng thời cũng là phương pháp nghiên cứu quan trọng của chủ nghĩa xã hội khoa học. Phải trên cơ sở những tư liệu thực tiễn của các sự thật  lịch sử mà phân tích để từ đó rút ra những nhận định, những khái quát về lý luận có kết cấu chặt chẽ, khoa học – tức là rút ra được lôgíc của lịch sử (chứ không dừng ở sự kể lể về sự thật lịch sử) .        
     Thứ hai : Phương pháp khảo sát và phân tích về mặt chính trị – xã hội dựa trên các điều kiện kinh tế - xã hội cụ thể  Đây là phương pháp đặc thù của chủ nghĩa xã hội khoa học. Khi nghiên cứu, khảo sát thực tế, thực tiễn ở một xã hội cụ thể, đặc biệt trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, người nghiên cứu, khảo sát, phải có sự tỉnh táo, nhạy bén về chính trị - xã hội  trước các hoạt động và các quan hệ xã hội. Bởi vì trong thời đại còn giai cấp, đấu tranh giai cấp, mọi hoạt  động xã hội, mọi quan hệ xã hội ở mọi lĩnh vực, kể cả khoa học, công nghệ, tri thức và việc sử dụng các công nghệ, tri thức, cũng như các nguồn lực, các lợi ích…đều có nhân tố chính trị chi phối, nhưng lại có vẻ như đứng ngoài, “đứng đằng sau”  các quan hệ và sự kiện đó. Nếu không có sự nhạy bén và bản lĩnh chính trị vững vàng, khoa học thì người nghiên cứu, khảo sát  dễ mơ hồ, lầm lẫn dẫn đến những hậu quả khôn lường.
     Thứ ba : Các phương pháp có tính liên ngành :  Khi nghiên cứu chủ nghĩa xã hội khoa học phải biết sử dụng nhiều phương pháp cụ thể của các khoa học xã hội khác như : Phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh, điều tra, khảo sát, thăm dò  dư  luận, sơ đồ hoá, mô hình hoá....để nghiên cứu những khía cạnh chính trị - xã hội. Có như vậy thì những khái quát lý luận của chủ nghĩa xã hội khoa học mới có cơ sở vững chắc.
    Thứ tư : Phương pháp tổng kết lý luận từ  thực tiễn. Khi nghiên cứu, khảo sát chủ nghĩa xã hội khoa học  cần sử dụng thực tiễn về chính trị – xã hội. Chỉ có trên cơ sở tổng kết thực tiễn , rút ra những bài học kinh nghiệm thành công, cũng như không thành cơng mới cĩ thể bổ sung, lm giu thm cho kho tng lý luận của chủ nghĩa xã hội khoa học.
IV. CHỨC NĂNG VÀ Ý NGHĨA CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
 1. Chức năng của chủ nghĩa xã hội khoa học
Một là, trang bị hệ thống lý luận chính trị - xã hội  và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin để luận giải tính tất yếu lịch sử dẫn đến sự hình thành, phát triển hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa, nhằm giải phóng giai cấp công nhân, giải phóng xã hội, giải phóng con người. Chức năng này thống nhất với chức năng của Triết học và  Kinh tế học chính trị Mác-Lênin, nhưng chủ nghĩa xã hội khoa học là bộ phận luận giải trực tiếp nhất về cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Hai là, trực tiếp giáo dục và trang bị lập trường tư tưởng, chính trị của giai cấp công nhân cho Đảng Cộng sản, cho giai cấp công nhân và nhân dân lao động - đó là lập trường xã hội chủ nghĩa, cộng sản chủ nghĩa,  để họ hiểu rõ được vai trò lịch sử của mình trong cuộc đấu tranh giành chính quyền, trong xây dựng chủ nghĩa xã hội, cũng như trong cuộc đấu tranh chống lại các hệ tư tưởng thù địch.
Ba là, định hướng về chính trị - xã hội cho mọi hoạt động của Đảng Cộng sản, của giai cấp công nhân, của Nhà nước xã hội chủ nghĩa và của nhân dân lao động trên mọi lĩnh vực, qua đó tạo cho xã hội sự ổn định về chính trị - xã hội và phát triển đúng với mục tiêu xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa – tức là làm cho tính chất xã hội chủ nghĩa, cộng sản chủ nghĩa thể hiện ngày càng rõ hơn, hoàn thiện hơn trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
 2 . Ý nghĩa của việc nghiên cứu, học tập chủ nghĩa xã hội khoa học
  a. Về mặt lý luận  
- Chủ nghĩa xã hội khoa học là một trong ba bộ phận hợp thành chủ nghĩa Mác-Lênin. Do đó, khi nghiên cứu, học tập chủ nghĩa Mác-Lênin thì phải nghiên cứu cả ba bộ phận hợp thành, nếu không sẽ dễ chệch hướng chính trị - xã hội, mà trước hết và chủ yếu là chệch hướng bản chất, mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản.
- Nghiên cứu, học tập chủ nghĩa xã hội khoa học nhằm trang bị nhận thức về chính trị - xã hội (đối tượng, chức năng, phạm vi khảo sát, vận dụng …) cho Đảng Cộng sản, cho nhà nước và nhân dân trong quá trình bảo vệ và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, chủ nghĩa xã hội khoa học nói riêng, chủ nghĩa Mác-Lênin nói chung được coi là “Vũ khí lý luận” của giai cấp công nhân, để thực hiện sự nghiệp giải phóng giai cấp công nhân, giải phóng xã hội.
- Nghiên cứu, học tập chủ nghĩa xã hội khoa học không chỉ để nhận thức và giải thích thế giới, mà điều quan trọng là nhằm góp phần cải tạo thế giới. Nếu chỉ thuần tuý chú trọng về kinh tế, khoa học và công nghệ sẽ dễ mơ hồ về mặt chính trị - xã hội. Như vậy sẽ hạn chế khả năng đóng góp, thậm chí vô tình cản trở sự nghiệp đổi mới của đất nước.
- Nghiên cứu, học tập chủ nghĩa xã hội khoa học để chúng ta có căn cứ  khoa học đấu tranh chống lại các nhận thức sai lệch về chủ nghĩa xã hội và sự  tuyên truyền chống phá của các thế lực thù địch.
 b. Về mặt thực tiễn 
Chủ nghĩa xã hội khoa học, cũng như các khoa học xã hội khác, bao giờ cũng có khoảng cách nhất định so với thực tiễn, nhất là những dự báo khoa học có tính quy luật. Nghiên cứu chủ nghĩa xã hội khoa học để thấy được tính tất yếu của khoảng cách đó. Đặc biệt, trong lúc chưa có nước nào xây dựng chủ nghĩa xã hội hoàn chỉnh thì hiện tượng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ đã tác động không nhỏ đến nhận thức của một bộ phận nhân dân. Vì vậy, việc nghiên cứu, giảng dạy, học tập chủ nghĩa xã hội khoa học càng trở nên khó khăn, đồng thời cũng càng có ý nghĩa chính trị cấp bách, bởi vì :
- Nghiên cứu chủ nghĩa xã hội khoa học một cách bình tĩnh, sáng suốt, chủ động, mới thấy được những thành tựu to lớn mà chủ nghĩa xã hội trước đây đã đạt được, cũng như mới tìm ra được nguyên nhân cơ bản và bản chất của những sai lầm, khuyết điểm, khủng hoảng, đổ vỡ trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở một số nước.
- Có nghiên cứu chủ nghĩa xã hội khoa học mới thấy rõ những thành tựu của công cuộc cải cách, đổi mới  ở một số nước xã hội chủ nghĩa, từ đó mới có được kết luận chính xác rằng: sự sụp đổ chủ nghĩa xã hội ở một số nước không phải do sai lầm của chủ nghĩa Mác-Lênin mà do Đảng cộng sản ở những  nước đó đã nhận thức và hành động trên nhiều vấn đề trái với chủ nghĩa xã hội khoa học. Đó là tư tưởng giáo điều, chủ quan, duy ý chí, xem nhẹ những thành quả chung của nhân loại; do xuất hiện chủ nghĩa cơ hội – phản bội trong một số Đảng cộng sản. Đồng thời do sự phản kích của chủ nghiã đế quốc bằng âm mưu “diễn biến hoà bình’. Có nhận thức đúng đắn như vậy chúng ta mới củng cố được lòng  tin, sự kiên định và bản lĩnh chính trị  của quần chúng nhân dân, đặc biệt là lớp trẻ vào  sự  nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
          - Trong điều kiện hiện nay, nghiên cứu, học tập chủ nghĩa xã hội khoa học, chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh càng là vấn đề cơ bản, cấp thiết ở nước ta nhằm xây dựng, chỉnh đốn Đảng, chống lại mọi biểu hiện cơ hội, dao động, thoái hóa, biến chất trong Đảng và xã hội .


CHƯƠNG II
LƯỢC KHẢO LỊCH SỬ TƯ TƯỞNG
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
I . KHÁI NIỆM VÀ PHÂN LOẠI TƯ TƯỞNG XÃ HỘI   CHỦ NGHĨA
1 .  Khái niệm tư tưởng xã hội chủ nghĩa
a. Định nghĩa tư tưởng xã hội chủ nghĩa
     Tư tưởng (tiếng Hy lạp là Idéa – tức hình tượng) là một hình thái ý thức của con người phản ánh thế giới hiện thực. Bất cứ tư tưởng nào cũng do điều kiện sinh hoạt vật chất, do  chế độ xã hội quy định và là sự phản ánh những điều kiện sinh hoạt vật chất của chế độ xã hội nhất định. Vì vậy, tư tưởng xã hội chủ nghĩa được định nghĩa như sau :
    Tư tưởng xã hội chủ nghĩa là hệ thống những quan niệm phản ánh nhu cầu, hoạt động thực tiễn và ước mơ của các giai cấp lao động bị thống trị; phản ánh về con đường, cách thức, phương pháp đấu tranh nhằm xây dựng một xã hội  trong đó không có áp bức, bóc lột, bất công, mọi người đều bình đẳng về mọi mặt, có cuộc sống ấm no, tự do,  hạnh phúc, văn minh.
Chính sự xuất hiện chế độ tư hữu là tiền đề kinh tế – xã hội cho sự xuất hiện tư tưởng xã hội chủ nghĩa và phong trào xã hội chủ nghĩa của nhân dân lao động
        b. Biểu hiện cơ bản của tư tưởng xã hội chủ nghĩa
   - Tư liệu sản xuất chủ yếu thuộc về mọi thành viên, thuộc về toàn xã hội;
   - Ai cũng có việc làm, ai cũng lao động,
   - Mọi người bình đẳng, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc;
   - Ai cũng có điều kiện cống hiến, hưởng thụ và phát triển toàn diện .
2 . Phân loại  tư tưởng xã hội chủ nghĩa 
a. Phân loại theo lịch đại là cách chia lịch sử tư tưởng xã hội chủ nghĩa thành các giai đoạn, tương ứng với các giai đoạn phát triển của xã hội loài người như: tư tưởng xã hội chủ nghĩa thời kỳ cổ đại và trung đại; tư tưởng xã hội chủ nghĩa thời kỳ phục hưng; tư tưởng xã hội chủ nghĩa thời kỳ cận đại; tư tưởng xã hội chủ nghĩa thời kỳ hiện đại.
 b. Phân loại theo trình độ phát triển của tư tưởng xã hội chủ nghĩa: chủ nghĩa xã hội sơ khai; chủ nghĩa xã hội không tưởng; chủ nghĩa xã hội không tưởng - phê phán; chủ nghĩa xã hội khoa học
  c. Phân loại theo sự kết  hợp giữa lịch đại với trình độ phát triển của tư tưởng xã hội chủ nghĩa. Theo các nhà nghiên cứu lịch sử Mác xít, không nên tuyệt đối hóa các tiêu chí, mà chỉ nên coi đó là tiêu chí chủ yếu, cơ bản nhất. Khi phân loại tư tưởng xã hội chủ nghĩa, cần chú ý đến các cấp độ phát triển nội tại theo kiểu kế thừa, phủ định, phát triển của tư tưởng xã hội chủ nghĩa.
 Với quan niệm này lịch sử tư tưởng xã hội chủ nghĩa được chia như sau : Tư tưởng xã hội chủ nghĩa thời kỳ cổ đại; Tư tưởng xã hội chủ nghĩa từ thế kỷ XV đến cuối thế kỷ XVIII; Chủ nghĩa xã hội không tưởng – phê phán đầu thế kỷ XIX; Chủ nghĩa xã hội khoa học.
II . LƯỢC KHẢO TƯ TƯỞNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA TRƯỚC MÁC
1 . Tư tưởng xã hội chủ nghĩa thời kỳ Cổ đại
Khi chế độ cộng sản nguyên thủy tan rã, chế độ chiếm hữu nô lệ ra đời, kinh tế - xã hội của loài người có sự phát triển đáng kể, quan hệ hàng hóa – tiền tệ xuất hiện, xã hội bắt đầu phân chia thành kẻ giàu, người nghèo. Giai cấp chủ nô cùng với, quý tộc, tăng lữ, con buôn, cho vay nặng lãi hợp thành lực lượng thống trị. Giai cấp nô lệ và các tầng lớp lao động khác hợp thành lực lượng bị thống trị, bị áp bức. Do đó, cuộc đấu tranh của các giai cấp, tầng lớp bị thống trị chống lại hành vi áp bức, bóc lột của giai cấp thống trị là một tất yếu phản ánh mâu thuẫn cơ bản trong phương thức sản xuất chiếm hữu nô lệ .
Những tư tưởng xã hội chủ nghĩa ở thời kỳ này chủ yếu thể hiện dưới dạng những mơ ước của người  lao động bị áp bức, bóc lột về một xã hội mới tốt đẹp. Chúng được thể hiện qua các câu truyện truyền miệng, trong các áng văn chương để cổ vũ cho các phong trào đấu tranh của những người nô lệ.
 Những ước mơ, khát vọng ấy chỉ mới dừng lại ở lòng khao khát được quay về với “ thời đại hoàng kim” mà sau này được các thánh kinh gọi là “ giang sơn ngàn năm của chúa”, tức là  muốn quay về với những giá trị của chế độ cộng sản nguyên thủy như: không có tư hữu, giai cấp, không có áp bức, bóc lột, mọi người bình đẳng, tự do v.v.  
2. Tư tưởng xã hội chủ nghĩa thế kỷ XV đến thế kỷ XVIII
a.  Hoàn cảnh lịch sử  
          Từ thế kỷ XV đến cuối thế kỷ XVIII, loài người có bước tiến dài trong đời sống kinh tế – xã hội: Sự phân công lao động trong công trường thủ công, đã tạo ra một tổ chức lao động xã hội nhất định và cùng vời điều đó thì nó cũng đồng thời phát triển một sức sản xuất mới, có tính chất xã hội, của lao động; quá trình tích lũy nguyên thũy của chủ nghĩa tư bản; phát kiến địa lý; sự phát triển của nền công nghiệp tư bản làm xuất hiện những thành phần đầu tiên của giai cấp vô sản và giai cấp tư sản; những cuộc chiến tranh  xâm lược của các nước tư bản đối với các nước còn lại làm cho thị trường tư bản chủ nghĩa được mở rộng; Cách mạng tư sản nổ ra và giành thắng lợi ở Hà Lan, Anh, Pháp, Hoa Kỳ…  chế độ tư bản chủ nghĩa dần dần thay thế chế độ phong kiến ở phần lớn châu Âu và Bắc Mỹ. Sự tích tụ và tập trung tư bản diễn ra mạnh mẽ, xung đột giai cấp diễn ra gay gắt… Những điều kiện và tiền đề ấy, đã làm tư tưởng xã hội chủ nghĩa phát triển sang một thời kỳ mới, với một trình độ mới, qua công lao và đóng góp của nhiều nhà tư tưởng vĩ đại.
      b. Các đại biểu xuất sắc và những tư tưởng xã hội chủ nghĩa chủ yếu  
- Từ thế kỷ XVI đến cuối thế kỷ XVII
Chủ nghĩa xã hội không tưởng thế kỷ XVI – XVII có nhiều đại biểu xuất sắc: Tômát Morơ  ( 1478 – 1535 ); Tômanđô Campanenla ( 1568 – 1693 ); Giêrắcdơ Uynxtenli (1609 – 1652). Trong đó đáng chú ý nhất là Tômát Morơ.
            Tômát Morơ ( 1478 – 1535 )
       Là người tham gia hoạt động chính trị trong hoàng gia Anh, ông đã để cho đời sau biết đến như một nhà tư tưởng xã hội chủ nghĩa xuất sắc là cuốn Không tưởng (Utopie). Trong đó đề cập nhiều nội dung của tư tưởng xã hội chủ nghĩa dưới hình thức văn học. Tư tưởng nổi bật là: Phê phán chế độ phong kiến phản động và phê phán chủ nghĩa tư bản khi nó mới ra đời (quá trình tích lũy ban đầu); chỉ ra nguyên nhân sâu xa của mọi tệ nạn xã hội, của tình trạng áp bức, bóc lột, bất công trong lòng xã hội tư bản là do chế độ tư hữu. Điều quan trọng và rất căn bản trong các quan niệm xã hội chủ nghĩa của ông là ở chỗ, muốn xóa bỏ áp bức, bóc lột, bất công … cần xóa bỏ chế độ tư hữu.
Tômađô Campanenla ( 1568 -1639)
      Là nhà tư tưởng yêu nước người Italia, ông đã viết nhiều  tác phẩm triết học, văn học luận chứng cho tư tưởng tiến bộ của mình, trong đó tác phẩm Thành phố mặt trời là tiêu biểu. Ông phủ nhận chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất; coi trọng việc áp dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất; chủ trương thực hiện phân phối bình quân theo nhu cầu; đề xướng mô hình xã hội mới, trong đó mọi người bình đẳng, thương yêu nhau và sống tự do.
 Giêrắcdơ Uynxtenli (1609 – 1652)
Sinh trưởng trong gia đình buôn tơ lụa ở nước Anh, ông tự học là chủ yếu và tích cực tham gia hoạt động xã hội, gắn bó với dân nghèo.
Sau thắng lợi của Cách mạng tư sản Anh (1640), chủ nghĩa tư bản có điều kiện phát triển mạnh. Tuy nhiên, cuộc đấu tranh giành quyền lực giữa phái “Bảo hoàng” và phái “Nghị viện” vẫn còn gay gắt. Xung đột giữa giai cấp bị áp bức với giai cấp thống trị diễn ra quyết liệt. Tác phẩm tiêu biểu là cuốn “Luật tự do”. Trong đó đòi sự bình đẳng cho người lao động trên mọi phương diện, cả trong kinh tế -xã hội - chính trị; đòi thủ tiêu chế độ tư hữu về ruộng đất, xây dựng chế độ cộng hòa, trong đó ruộng đất và sản phẩm lao động làm ra phải là tài sản chung của toàn xã hội.
-  Tư tưởng xã hội chủ nghĩa không tưởng thế kỷ XVIII
Giăng Mêliê  ( 1664 – 1729 )
      Sinh ra trong gia đình thợ dệt, học trong các trường dòng. Ông nghiên cứu sâu tác phẩm triết học của Đềcác. Năm 23 tuổi đuợc phong linh mục,
      Tác phẩm nổi bật của ông là cuốn luận văn “Những di chúc của tôi”. Trong đó nổi lên hai nội dung quan trọng có tính chất xã hội chủ nghĩa. Ông coi hiện tượng bất bình đẳng trong xã hội không phải là cái tự nhiên ban phát mà là do con người tạo ra, do đó con người có thể xóa bỏ được nó. Ông cho rằng người nông dân có thể tự giải phóng bằng đấu tranh cách mạng lật đổ chế độ phong kiến .
 Giắccơ Babớp (1760 -1797)
     Trong không khí sục sôi của Cách mạng tư sản Pháp (1789), nhiều nhà tư tưởng tiểu tư sản có khuynh hướng xã hội chủ nghĩa tham gia vào cuộc cách mạng lật đổ chế độ phong kiến. Giai cấp vô sản đã xuất hiện thành một lực lượng và bắt đầu có nhu cầu tách khỏi khối quần chúng nghèo khổ mà từ đó nó đã sinh ra. Đại biểu xuất sắc và là một lãnh tụ của lực lượng chính trị mới này là Giắccơ Babớp. Với sự ra đời của phài G. Babớp, lần đầu tiên trong lịch sử, vấn đề đầu tranh cho chủ nghĩa xã hội được đặt ra với tính cách một phong trào thực tiễn, chứ không chỉ là tư tưởng, lý luận, càng không chỉ là khát vọng, ước mơ về chế độ xã hội mới. G. Babớp đưa ra bản “Tuyên ngôn của những người bình dân”. như một cương lĩnh hành động với những nhiệm vụ, biện pháp cụ thể, được thực hiện ngay trong quá trình cách mạng. 
 Trong thời kỳ này cần chú ý đến các quan niệm tiến bộ mang tính chất xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa của F.  Môrenly với tác phẩm “Bộ luật của tự nhiên” và “lý thuyết về quyền bình đẳng tự nhiên” của G.Mably, v.v..    
3. Chủ nghĩa xã hội không tưởng - phê phán đầu thế kỷ XIX
          a .  Hoàn cảnh lịch sử  
          Cuối thế kỷ XVIII là thời kỳ cách mạng tư sản phát triển rất mạnh. Nền sản xuất công nghiệp đã diễn ra nhanh chóng ở Anh, một phần châu Âu và Bắc Mỹ làm bộ mặt kinh tế – xã hội của thế giới biến đổi nhanh chóng. Hai lực lượng xã hội đối lập nhau ngày càng rõ nét, đó là giai cấp công nhân và giai cấp tư sản. Sau khi củng cố được địa vị thống trị, giai cấp tư sản bộc lộ bản chất cố hữu của nó là áp bức,  bóc lột giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Sự phát triển của nền công nghiệp làm cho giai cấp công nhân ngày càng lớn mạnh, trở thành lực lượng quan trọng trong lĩnh vực sản xuất, trong nền kinh tế. Trước tình trạng bị áp bức, bóc lột, bất công, nghèo đói giai cấp công nhân buộc phải đứng lên đấu tranh. Trong điều kiện ấy, một bộ phận trí thức tư sản, tiểu tư sản tiến bộ đã phản ánh lợi ích, khát vọng và cuộc đấu tranh của các giai cấp lao động vào trong học thuyết xã hội của mình.  
     b. Các nhà xã hội chủ nghĩa không tưởng tiêu biểu
Côlôdơ Hăngri  Đơ Xanh Ximông (1760 - 1825)
 Ông là người Pháp, sinh ra trong một gia đình quý tộc, từ nhỏ đã có tính cách đặc biệt. Ông đã tham gia cùng nhân dân Mỹ chống thực dân Anh và được phong hàm đại tá. Ông viết nhiều tác phẩm đề cập đến những nội dung có tính chất xã hội chủ nghĩa. Trước hết, ông phê phán tính chất thiếu triệt để của cách mạng tư sản Pháp (1789) và chỉ ra những bất hợp lý đang tồn tại trong xã hội tư bản; lý giải sự xuất hiện giai cấp và xung đột giai cấp; nêu được ý tưởng về sự tiêu vong nhà nước. Ông chủ trương cải tạo xã hội bằng con đường ôn hòa, chưa biết đến vai trò của giai cấp Vô sản.
Sáclơ Phuriê  ( 1772 – 1837 )   
Sinh ra trong gia đình buôn bán ở nuớc Pháp, không được học hành nhiều nhưng lại có trí thông minh tuyệt vời. Ông nắm rất vững phép biện chứng trong quan sát và phân tích vấn đề. Ông đã phát hiện ra tình trạng vô chính phủ của nền công nghiệp tư bản, trong đó “sự nghèo khổ được sinh ra từ chính sự thừa thãi”. Theo ông, xã hội loài người trải qua bốn giai đoạn phát triển: mông muội, dã man, gia trưởng, văn minh. Ông dự đoán xã hội tư bản nhất định sẽ bị thay thế bằng một xã hội mới. Ông phản đối dùng bạo lực và cũng không biết đến vai trò của giai cấp Vô sản.
Rôbớt Ôoen   (  1771-1858 )
Trong những năm 30 của thế kỷ XIX, ở nước Anh nổ ra phong trào đấu tranh đòi cải cách tuyển cử có sự tham gia của đông đảo công nhân và nhân dân lao động Anh. Trong bối cảnh ấy xuất hiện một nhà cải cách có khuynh hướng cộng sản chủ nghĩa, nhà cải càch ấy là R. Ooen.
R. Ooen không chỉ đề xướng và kiến nghị những tư tưởng có tính chất xã hội chủ nghĩa, mà còn đề ra tổ chức thực hiện tinh thần được nêu trong “ Luật lao động nhân đạo” trong công xưởng nơi ông làm giám đốc. Bằng kinh nghiệm hoạt động thực tế ông đánh giá cao vai trò của công nghiệp, của tiến bộ kỹ thuật đối với sản xuất và phát triển kinh tế. Những chủ trương có tính nhân đạo mà R. Ooen thực hiện trong công xưởng của mình đã mang lại kết quả nhất định việc cải thiện đời sống của công nhân. R. Ooen là người chủ trương phải xóa bỏ tư hữu vốn là nguyên nhân của những bất công và tệ nạn xã hội trong xã hội tư bản.
Bị thất bại và khánh kiệt gia sản do những thực nghiệm đơn độc của mình ở Hoa Kỳ, R. Ô oen dồn toàn bộ sức lực và thời gian còn lại của cuộc đời vào hoạt động trong phong trào của giai cấp công nhân Anh.
4 . Những giá trị lịch sử và những hạn chế của chủ nghĩa xã hội không  tưởng
a. Giá trị lịch sử của chủ nghĩa xã hội không tưởng
- Học thuyết của các nhà xã hội chủ nghĩa không tưởng đều chứa đựng tinh thần nhân đạo cao cả. Nhìn chung đều chưa vượt khỏi tinh thần nhân đạo tư sản, nhưng ở giai đoạn đầu thế kỷ XIX một số nhà xã hội chủ nghĩa không tưởng đã có nhiều luận điểm có giá trị vượt lên trên tinh thần nhân đạo tư sản.
- Với những mức độ khác nhau, nhìn chung tư tưởng xã hội chủ nghĩa trong các thời kỳ này đều thể hiện tinh thần phê phán, lên án chế độ quân chủ chuyên chế và chế độ tư bản chủ nghĩa đương thời.
- Qua các học thuyết của mình, các nhà xã hội chủ nghĩa không tưởng đã để lại nhiều luận điểm có giá trị về sự phát triển của xã hội tương lai mà sau này các nhà chủ nghĩa xã hội khoa học đã kế thừa có chọn lọc và chứng minh trên cơ sở khoa học. Đó là những luận điểm về tổ chức sản xuất và phân phối sản phẩm xã hội; về vai trò của công nghiệp và khoa học – kỹ thuật; về xóa bỏ sự đối lập giữa lao động chân tay và lao động trí óc; về sự nghiệp giải phóng phụ nữ; về vai trò lịch sử của nhà nước,v.v..
           - Các nhà xã hội chủ nghĩa không tưởng không chỉ đơn thuần phản ánh về mặt tư tưởng, mà một số ông đã thực sự “xả thân” hoạt động trong thực tiễn để thức tỉnh giai cấp công nhân và nhân dân lao động, từ đó quan sát, phát hiện ra nhiều những giá trị tư tưởng  mới .       
      b. Hạn chế lịch sử của  chủ nghĩa xã hội không  tưởng
- Do ảnh hưởng sâu sắc của chủ nghĩa duy lý và chân lý vĩnh cửu, nên hầu hết các nhà xã hội chủ nghĩa không tưởng đều chưa thoát khỏi quan niệm duy tâm về lịch sử. Các ông cho rằng, chân lý vĩnh cửu (tức xã hội tốt đẹp) đã có sẵn và đang tồn tại ở đâu đó, chỉ cần người tài ba phát hiện và thuyết phục mọi người là xây dựng được một xã hội mới tốt đẹp.
- Hầu hết các nhà xã hội chủ nghĩa không tưởng đều có khuynh hướng cải tạo xã hội bằng con đường ôn hòa như tuyên truyền pháp luật, thực nghiệm xã hội, thậm chí có ông còn hy vọng vào sự “từ tâm” - “từ thiện” của người giàu và những kẻ đang nắm trong tay quyền lực. Một số ông có chủ trương khởi nghĩa nhưng chưa phải là quá trình chuẩn bị thật sự tự giác, nên đều đi đến thất bại. 
- Các ông đều không giải thích được bản chất của chế độ nô lệ làm thuê tư bản, không phát hiện được những quy luật nội tại chi phối con đường, cách thức cho những chuyển biến tiếp theo của xã hội.
 - Các ông đều không phát hiện ra lực lượng xã hội tiên phong  có thể thực hiện được sự chuyển biến cách mạng từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản, mặc dù lực lượng ấy đã được sinh ra và lớn lên cùng với nền đại công nghiệp tư bản -  đó là giai cấp công nhân .
c. Nguyên nhân của những hạn chế
- Những trào lưu xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa không tưởng ra đời trong điều kiện phương thức sản xuất tư bản phát triển chưa đầy đủ, nền công nghiệp lớn mới chỉ bắt đầu rõ nét ở nước Anh. Do đó, mâu thuẫn giữa giai Vì vây những thủ đoạn để giải quyết mâu thuẫn ấy cũng chưa xuất hiện đầy đủ và rõ nét .
- Trong điều kiện  kinh tế - xã hội như vậy thì lý luận về chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản của các ông cũng chưa thể chín muồi. Do những hạn chế của các nhà xã hội chủ nghĩa ở thời kỳ này, nên các tư tưởng về chủ nghĩa xã hội trước Mác  được gọi là chủ nghĩa xã hội không tưởng.
III. SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC     
1 .  Sự hình thành của chủ nghĩa xã hội khoa học
a . Điều kiện và tiền đề khách quan dẫn đến sự ra đời chủ nghĩa xã hội khoa học
          - Điều kiện kinh tế – xã hội 
       Vào những năm 40 của thế kỷ XIX, phương thức sản xuất tư bản phát triển mạnh gắn liền với sự ra đời của nền công nghiệp lớn làm cho giai cấp công nhân tăng nhanh về số lượng. Bộ phận công nhân công nghiệp ngày càng đông và trở thành hạt nhân trong giai cấp công nhân. Vì vậy, cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân chống giai cấp tư sản - biểu hiện về mặt xã hội của mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất tư bản ngày càng gay gắt. Nhiều cuộc khởi nghĩa, nhiều phong trào đấu tranh đã bắt đầu có tổ chức chặt chẽ, có quy mô lớn và quyết liệt, nhưng đều đi đến thất bại.
       Chính điều kiện kinh tế - xã hội ấy đòi hỏi cần có lý luận tiên phong để dẫn đường - điều mà các nhà xã hội chủ nghĩa không tưởng đương thời đã không thể đảm đương được. Đồng thời, điều kiện kinh tế - xã hội không chỉ đặt ra yêu cầu đối với các nhà tư tưởng của giai cấp công nhân, mà còn là mảnh đất hiện thực để các ông nghiên cứu, khái quát hình thành nên hệ thống lý luận mới để hướng dẫn cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân
           - Tiền đề văn hóa và tư tưởng.
          Đến đầu thế kỷ XIX nhân loại đã đạt được nhiều thành tựu to lớn trên lĩnh vực khoa học, văn hóa và tư tưởng :
        Trong khoa học tự nhiên có ba phát minh quan trọng: định luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng; học thuyết tế bào; học thuyết tiến hóa của Đác Uyn. Những phát minh này đã tạo cơ sở để C.Mác – Ph.Ăngghen khẳng định quan điểm duy vật của mình khi phân tích, giải thích những vấn đề của tự nhiên, xã hội và tư duy.
        Trong  khoa học xã hội có ba thành tựu lớn: nền triết học cổ điển Đức mà người tiêu biểu là Phoiơbắc Hêghen; của kinh tế chính trị học cổ điển Anh mà người tiêu biểu là A.SmíthĐ.Ricarđô; các học thuyết xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa không tưởng – phê phán mà người tiêu biểu là H.Xanh Ximông, S.Phuriê, R.Ooen. Những thành tựu này đã tạo điều kiện để C.Mác – Ph.Ăngghen kế thừa những tư tưởng tiến bộ trong quá trình xây dựng học thuyết của mình.
b . Vai trò của Các Mác và Phriđrích Ăngghen đối với sự ra đời của chủ nghĩa xã hội khoa học           
   C.Mác (1818-1883), Ph.Ăngghen (1820-1895)  
C.Mác và Ph.Ăngghen sinh trưởng trong một quốc gia có nền triết học phát triển rực rỡ, nổi bật là chủ nghĩa duy vật của L. Phoiơbắc và phép biện chứng của V.Ph. Hêghen. Bản thân hai ông là người có trí tuệ uyên bác nên đã tiếp thu được các giá trị của nền triết học cổ điển Đức và kho tàng tư tưởng, lý luận của loài người. Hai ông sớm gắn bó với giai cấp công nhân và nhân dân lao động  nên đã hiểu được bản chất các sự kiện kinh tế - chính trị, chính trị - xã hội  đang diễn ra trong lòng xã hội tư bản.
C.Mác - Ph.Ăngghen đã kế thừa được các thành tựu khoa học đến giữa thế kỷ XIX. Trên cơ sở quan sát, phân tích những sự kiện đang diễn ra, hai ông từng bước hình thành nên học thuyết xã hội mới, đưa các giá trị lý luận nói chung, tư tưởng xã hội chủ nghĩa nói riêng, lên một trình độ mới về chất.
Qua hoạt động thực tiễn đến những năm 40 của thế kỷ XIX, C.Mác - Ph.Ăngghen có hai phát kiến vĩ đại là: chủ nghĩa duy vật lịch sử học thuyết về giá trị thặng dư. Hai phát kiến này đã lý giải một cách khoa học sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, đã khắc phục một cách triệt để những hạn chế của các nhà xã hội chủ nghĩa không tưởng.
Cùng với các tác phẩm khác như: Góp phần phê phán triết học pháp quyền của Hêghen; Tình cảnh giai cấp lao động ở Anh; Hệ tư tưởng Đức; Những nguyên lý của chủ nghĩa cộng sản. Đặc biệt sự ra đời tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” vào năm 1848 được coi là mốc ghi nhận sự hình thành về cơ bản những nguyên lý của chủ nghĩa xã hội khoa học - bộ phận thứ ba trong học thuyết của C.Mác - Ph.Ăngghen.
Như vậy, chủ nghĩa xã hội khoa học không phải là sản phẩm ngẫu nhiên của một bộ óc thiên tài mà là kết quả tất yếu của sự vận động lịch sử làm nảy sinh giai cấp công nhân,  giai cấp tư sản và cuộc đấu tranh giữa hai giai cấp này. Nhiệm vụ của chủ nghĩa xã hội khoa học  là tìm trong thực tế những lực lượng, phương thức, điều kiện …nhằm giải quyết xung đột giai cấp nhằm đảm bảo cho cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân đi đến thắng lợi.
2 . Các giai đoạn cơ bản trong sự phát triển  của chủ nghĩa xã hội khoa học
a . C.Mác- Ph.Angghen đặt nền móng và phát triển chủ nghĩa xã hội khoa học ( 1844 – 1895 )
 Quá trình xây dựng, phát triển Chủ nghĩa xã hội khoa học của C.Mác-Ph.Ăngghen  được  chia thành ba thời kỳ :
- Thời kỳ thứ nhất từ 1844 đến 1848
Là thời kỳ hai ông chuyển từ chủ nghĩa  dân chủ cách mạng sang chủ nghĩa xã hội, chuyển từ chủ nghĩa duy tâm sang chủ nghĩa duy vật biện chứng. Những tác phẩm tiêu biểu trong thời kỳ này: Lời nói đầu của Góp phần phê phán triết học pháp quyền của Hêghen; Bản thảo kinh tế – triết  học 1844; tình cảnh giai cấp lao động ở Anh; Hệ tư tưởng Đức; Sự khốn cùng của Triết học …
Đặc biệt, sự xuất hiện tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản” 1848 đã đánh dấu sự hình thành cơ bản những nguyên lý của chủ nghĩa xã hội khoa học
- Thời kỳ thứ  hai từ 1848 đến 1871
Là thời kỳ diễn ra những sự kiện của cách mạng dân chủ  tư sản ở Tây Âu (1848 – 1851 ); Quốc tê I được thành lập (1864); Nổi bật là sự ra đời tập I bộ Tư bản của Mác (1867) khẳng định thêm một cách vững chắc địa vị kinh tế – xã hội và vai trò lịch sử của giai cấp công nhân.
Từ tổng kết  kinh nghiệm đấu tranh của giai cấp công nhân, Mác đã rút ra nhiều kết luận quan trọng như phải đập tan bộ máy nhà nước tư sản, xây dựng nhà nước mới; xây dựng học thuyết về cách mạng không ngừng, về vai trò chính Đảng của giai cấp công nhân; về liên minh giai cấp …
          - Thời kỳ thứ ba từ 1871 đến 1895
Trên cơ sở tổng kết kinh nghiệm Công xã Pari, hai ông đã phát triển chủ nghĩa xã hội khoa học qua các tác phẩm chủ yếu ở thời kỳ này như Nội chiến ở Pháp; Phê phán cương lĩnh Gôta; Chống Đuyrinh; Sự phát triẻn của chủ nghĩa xã hội từ  không tưởng đến khoa học; Nguồn gốc của gia đình của chế độ tư hữu và của nhà nước … 
         Cũng như các khoa học khác, chủ nghĩa xã hội khoa học là một hệ thống tri thức, trong đó có những tri thức phản ánh bản chất của khách thể, chúng tồn tại mãi mãi với thời  gian và không ngừng được bổ sung, hoàn thiện. Còn các tri thức về cách thức, biện pháp và phương pháp vận dụng  các quy luật ấy có thể thay đổi theo những hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Không được cho rằng  những hạn chế, nhược điểm, thậm chí  sai lầm  trong cách thức, biện pháp là những sai lầm của cả tri thức phản ánh quy luật đã được nhận thức, cũng giống như không thể vì thất bại của hàng nghìn lần thí nghiệm của Eđixơn nhằm sáng chế ra đền điện mà lại nói rằng nguyên lý  về sự có thể chuyển điện năng thành nhiệt năng là sai lầm.
      b. V.I.Lênin phát triển và vận dụng chủ nghĩa xã hội khoa học trong hoàn cảnh lịch sử mới
          V.I.Lênin ( 1870–1924 )
          Là người kế tục xuất sắc sự nghiệp cách mạng và khoa học của C.Mác- Ph.Ăngghen trong hoàn cảnh lịch sử mới: chủ nghĩa tư bản chuyển sang giai đoạn chủ nghĩa đế quốc. Sự vận dụng và phát triển chủ nghĩa xã hội khoa  học  của Lênin được chia làm hai thời kỳ:
- Trước cách mạng Tháng Mười Nga: Trên cơ sở kế thừa những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa xã hội khoa học, đồng thời từ sự phân tích, tổng kết các sự kiện diễn ra trong đời sống kinh tế - xã hội, Lênin đã bổ sung và phát triển nhiều nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa xã hội khoa học như: tri thức về Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân; về nguyên tắc tổ chức, cương lĩnh, chiến lược, sách lược trong nội dung hoạt động của Đảng Cộng sản; về cách mạng xã hội chủ nghĩa và chuyên chính vô sản; về vấn đề dân tộc, tôn giáo;  về  vấn đề liên minh công nông; về quan hệ quốc tế …
- Sau Cách mạng Tháng Mười Nga : Do yêu cầu của công cuộc xây dựng chế độ mới, Lênin đã phân tích  làm rõ nội dung, bản chất của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; xác định cương lĩnh xây dựng chủ nghĩa xã hội; xây dựng và tổ chức thực hiện các chính sách kinh tế; xác định chính sách kinh tế  mới nhằm sử dụng và học tập kinh nghiệm tổ chức, quản lý kinh tế của chủ nghĩa tư bản để cải tạo nền kinh tế tiểu nông lạc hậu của nước Nga Xô viết…
      Trong thời kỳ này, Lênin đã viết nhiều tác phẩm kinh điển trong đó nêu ra và luận giải một loạt những vấn đề cơ bản của chủ nghĩa xã hội khoa học. Lênin đã đấu tranh chống lại mọi trào lưu của chủ nghĩa cơ hội - xét lại, giáo điều và bệnh “tả khuynh” trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế.
Với những thành quả đó, Lênin trở thành một thiên tài khoa học, một lãnh tụ kiệt xuất của giai cấp công nhân và  nhân dân lao động toàn thế giới.
c. Các Đảng Cộng sản vận dụng và phát triển chủ nghĩa xã hội khoa học từ sau khi  Lênin từ trần ( 1924 ) đến nay
 Từ sau khi Lênin từ trần đến nay, chủ nghĩa xã hội khoa học và phong trào cách mạng của giai cấp công nhân thế giới đã trải qua nhiều thử thách, đã có được những thành tựu vĩ đại đồng thời cũng có những tổn thất to lớn. Có thể nêu vắn tắt những nội dung cơ bản phản ánh sự vận dụng, phát triển chủ nghĩa xã hội khoa học trong giai đoạn này như sau:
- Mọi thắng lợi của nhân dân lao động, của cách mạng thế giới trong thế kỷ XX là do các Đảng cộng sản và công nhân quốc tế đã vận dụng những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa xã hội khoa học vào thực tiễn ở mỗi nước cũng như của cả hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới. Đồng thời từ tổng kết thực tiễn xây dựng chế độ xã hội mới ở mỗi nước, các Đảng Cộng sản và công nhân quốc tế đã góp phần quan trọng vào việc phát triển, bổ sung và hoàn thiện chủ nghĩa xã hội khoa học cả về mặt lý luận, cũng như phương hướng, giải pháp, chủ trương chính sách.
        - Sự phát triển rực rỡ của chủ nghĩa xã hội hiện thực từ những năm 20 đến những năm 70 của thế kỷ XX và sau đó là sự sụp đổ chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu là minh chứng cho sự thành công và thất bại của sự vận dụng các nguyên lý, quy luật  của chủ nghĩa xã hội khoa học vào thực tiễn.
       - Từ  những thành công và thất  bại của chủ nghĩa xã hội hiện thực, cần nghiêm túc phân tích rút ra những bài học kinh nghiệm, qua đó tìm ra được phương thức, biện pháp, đúng đắn, chủ trương chiến lược và sách lược hợp lý trong hoàn cảnh mới, tiếp tục bổ sung, phát triển sáng tạo chủ nghĩa xã hội khoa học nhằm thực hiện thắng lợi trên thực tế chế độ xã hội mới: chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa.
d. Đảng Cộng sản Việt Nam với sự vận dụng và phát triển chủ nghĩa xã hội khoa học. 
Lịch sử dân tộc Việt Nam từ khi có Đảng lãnh đạo cho thấy, những thắng lợi của cách mạng luôn gắn liền với quá trình vận dụng  sáng tạo lý luận của chủ nghĩa xã hội khoa học trong những điều kiện lịch sử cụ thể của thời đại, trên cơ sở thực tiễn Việt Nam.
Trong sự nghiệp vĩ đại ấy, sự xuất  hiện và cống hiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã làm phong phú thêm kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin. Những đóng góp, bổ sung và phát triển, cũng như sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa xã hội khoa học của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam có thể tóm tắt ở một số nội dung cơ bản sau:
- Độc lập dân tộc  gắn liền với chủ nghĩa xã hội là quy luật của cách mạng Việt Nam trong thời đại ngày nay.
- Kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời từng bước đổi mới chính trị; giữ vững sự ổn định chính trị, tạo điều kiện và môi trường thuận lợi để đổi mới, phát triển kinh tế, xã hội .   
- Xây dựng và phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phải đi đôi với tăng cường vai trò quản lý của nhà nước. Giải quyết đúng  mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội. Xây dựng, phát triển kinh tế phải đi đôi với giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc và bảo vệ môi trường sinh thái.
- Mở rộng và phát huy khối đại đoàn kết toàn dân tộc; phát huy sức mạnh của mọi giai cấp, tầng lớp, mọi thành phần dân tộc, tôn giáo, mọi công dân Việt Nam kể cả người Việt Nam ở nước ngoài.
- Tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ, giúp đỡ của nhân dân thế giới; khai thác mọi khả năng có thể khai thác nhằm mục tiêu xây dựng và phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa; kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại .
- Giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam – nhân tố quyết định hàng đầu đảm bảo thắng lợi của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Thực tiễn 20 năm đổi mới Đảng ta đã rút ra một số bài học lớn góp phần phát triển chủ nghiã xã hội khoa học.
Một là, trong quá trình đổi mới phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghiã Mác – Lênin và  tư tưởng Hồ Chí Minh.
Hai là, đổi mới toàn diện, đồng bộ, có kế thừa, có bước đi, hình thức và cách làm phù hợp.
Ba là, đổi mới phải vì lợi ích của nhân dân, dựa vào nhân dân, xuất phát từ thực tiễn, nhạy bén với cái mới.
Bốn là, Phát huy cao độ nội lực, đồng thời ra sức tranh thủ ngoại lực, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong điều kiện mới.
Năm là, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, không ngừng đổi mới hệ thống chính trị, xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân./


CHƯƠNG III

SỨ MỆNH LỊCH SỬ CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN

            Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là phạm trù cơ bản nhất của chủ nghĩa xã hội khoa học. V. I. Lênin xác định:    “ Điểm chủ yếu trong học thuyết của C. Mác là ở chỗ nó làm sáng rõ vai trò lịch sử thế giới của giai cấp vô sản là người xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa”(1).
I .  KHÁI NIỆM GIAI CẤP CÔNG NHÂN
1. Quan niệm của chủ nghĩa Mác – Lênin về giai cấp công nhân
Khi nghiên cứu học thuyết cải tạo thế giới, C. Mác và Ph. Angghen đã đặt ra: “ Vấn đề là ở chỗ giai cấp vô sản thực ra là gì, và phù hợp với sự tồn tại ấy của bản thân nó, giai cấp vô sản buộc phải làm gì về mặt lịch sử”(2). 
Mác-Ăngghen dùng nhiều thuật ngữ khác nhau: giai cấp vô sản, giai cấp xã hội hoàn toàn chỉ dựa vào bán sức lao động  của mình; lao động làm thuê ở thế kỷ XIX; giai cấp vô sản hiện đại; giai cấp công nhân hiện đại; giai cấp công nhân  đại công nghiệp… Như những cụm từ đồng nghĩa để biểu thị một khái niệm giai cấp công nhân – con đẻ của nền đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa, giai cấp đại biểu cho lực lượng sản xuất tiên tiến, cho phương hức sản xuất hiện đại.
-----------------------------------
1.        V.I.Lênin: toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1980, t. 23.tr.1.
2.      C.Mác và Ph. Angghen: Toàn tập, Nxb.Chính trị qg. HN. 1995, t.2, tr. 56    

Dù tên gọi khác nhau, nhưng theo C.Mác – Ph.Angghen, giai cấp công nhân mang hai thuộc tính cơ bản :
Thư nhất, xét về phương thức lao động và phương thức sản xuất, giai cấp công nhân  là những người lao động trực tiếp, hay gián tiếp vận hành các công cụ sản xuất có tính chất công nghiệp, ngày càng hiện đại và mang tính xã hội hoá cao.
C. Mác và Ph. Angghen: “ Các giai cấp khác đều suy tàn và tiêu vong cùng với sự phát triển của đại công nghiệp, còn giai cấp vô sản lại là sản phẩm của bản thân nền đại công nghiệp”(1); “ Công nhân cũng là một phát minh của thời đại mới, giống như máy móc vậy… Công nhân Anh là đứa con đầu lòng của nền công nghiệp hiện đại”(2).
Thứ hai, xét về vị trí trong quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, đó là những người lao động không có tư liệu sản xuất, phải bán sức lao động cho nhà tư bản và bị nhà tư bản bóc lột giá trị thặng dư. ( Đây là đặc trưng cơ bản của giai cấp công nhân trong xã hội tư bản. Vì vậy C.Mác – Ph.Ăngghen thường sử dụng khái niệm giai cấp vô sản ) . 
Ngày nay với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản và sự phát triển của khoa học – công nghệ, giai cấp công nhân  đã có nhiều thay đổi so với thời kỳ của C.Mác, cụ thể như sau :
      - Bên cạnh bộ phận công nhân của nền công nghiệp cơ khí, đã xuất hiện bộ phận công nhân trong nền công nghiệp tự động hóa, họ áp dụng phổ biến công nghệ thông tin vào sản xuất.
----------------------------------------
1. Sđd. T. 4, tr. 610
2. Sđd. T. 12, tr. 11
     - Xuất hiện bộ phận công nhân dịch vu. Bộ phận này gắn trực tiếp với nền sản xuất công nghiệp và họ hoạt động theo lối công nghiệp.
     - Giai cấp công nhân có trình độ mọi mặt ngày càng cao. Ngày càng có nhiều người thuộc tầng lớp trí thức tham gia vào quá trình sản xuất vật chất trở thành công nhân, bộ phận công nhân bán sức lao động trí óc ngày càng nhiều., giá trị thặng dư do giai cấp công nhân làm ra cho nhà tư bản ngày càng lớn.
      - Một số công nhân có tư liệu sản xuất phụ tại gia đình, một bộ phận công nhân có cổ phần ở nhà máy, đời sống của công nhân được cải thiện và một bộ phận được nâng cao.
Giai cấp công nhân tuy có những thay đổi to lớn như đã nêu ở trên nhưng điều đó không hề làm thay đổi bản chất xã hội tư bản, cũng như  không làm  giảm vai trò của giai cấp công nhân trong nền kinh tế và tỷ trọng của họ trong dân cư .
Như vậy, theo quan niệm của C.Mác, những người lao động trong các ngành sản xuất công nghiệp, dịch vụ trực tiếp cho sản xuất công nghiệp là công  nhân. Còn những người làm công ăn lương trong các ngành khác không liên quan trực tiếp đến sản xuất công nghiệp, như : y tế, văn hoá, giáo dục… là người lao động nói chung.
      2. Định nghĩa giai cấp công nhân
     Căn cứ vào hai thuộc tính của giai cấp công nhân theo quan điểm của C. Mác và Ph. Angghen; căn cứ những biến đổi của giai cấp công nhân thời đại hiện nay, chúng ta có thể định nghĩa:
Giai cấp công nhân là một tập đoàn xã hội ổn định, hình thành phát triển cùng với quá trình phát triển của nền công nghiệp hiện đại, với nhịp độ phát triển của lực lượng sản xuất có tính chất xã hội hoá ngày càng cao; là lực lượng lao động cơ bản tiên tiến trong các quy trình công nghệ, dịch vụ công nghiệp,  trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia vào quá trình sản xuất, tái sản xuất ra của cải vật chất và cải tạo các quan hệ xã hội; đại biểu cho  lực lượng sản xuất và phương thức sản xuất  tiên tiến trong thời đại hiện nay. Địa vị kinh tế – xã hội tùy thuộc và chế độ xã hội đương thời.  
- Ở những nước tư bản chủ nghĩa, giai cấp công nhân về cơ bản không có tư liệu sản xuất, làm thuê cho giai cấp tư sản  và bị  bóc lột giá  trị thặng dư.
- Ở những nước xã hội chủ nghĩa, giai cấp công nhân cùng với nhân dân lao động làm chủ những tư liệu sản xuất chủ yếu và giữ vai trò lãnh đạo quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
II. NỘI DUNG VÀ ĐIỀU KIỆN KHÁCH QUAN QUY ĐỊNH SỨ MỆNH LỊCH SỬ CỦA  GIAI CẤP CÔNG NHÂN
1 . Nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
Nêu một cách khái quát, nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là : xoá bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa; xoá bỏ chế độ người bóc lột người; tự giải phóng giải  mình, giải phóng nhân dân lao động và toàn thể nhân loại khỏi sự áp bức, bóc lột, nghèo nàn, lạc hậu; xây dựng xã hội cộng sản văn minh. Ph. Angghen viết: Thực hiện sự nghiệp giải phóng thế giới ấy, – đó là sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản hiện đại.  
2. Những điều kiện khách quan quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
Luận thuyết về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân được C. Mác và Ph. Angghen trình bày trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản. Trong tác phẩm này các ông đã chỉ rõ những điều kiện khách quan quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.
- Thứ nhất : Giai cấp công nhân là bộ phận quan trọng nhất gắn liền với lực lượng sản xuất  tiên tiến trong xã hội tư bản. Vì vậy, sự phát triển giai cấp công nhân  (tức sự phát triển của lực lượng sản xuất)  tất yếu sẽ phá vỡ quan hệ sản xuất tư bản. Sau khi giành chính quyền, giai cấp công nhân đại biểu cho sự tiến bộ của lịch sử sẽ lãnh đạo các giai cấp lao động xây dựng một phương thức sản xuất mới tiến bộ  hơn phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa .
- Thứ hai : Giai cấp công nhân là con đẻ của nền sản xuất công nghiệp hiện đại, do đó, giai cấp công nhân có xu hướng ngày càng đông. Do được rèn luyện trong nền sản xuất công nghiệp hiện đại, nên trình độ mọi mặt của giai cấp công nhân ngày càng cao. Đống thời chính nền sản xuất công nghiệp hiện đại đã đoàn kết và tổ chức giai cấp công nhân thành một lực lượng xã hội hùng mạnh.
         - Thứ ba : Trong xã hội tư bản, giai cấp công nhân không có tư liệu sản xuất, phải đi làm thuê, bị giai cấp tư sản áp bức, bóc lột nặng nề, họ là giai cấp đối kháng trực tiếp với giai cấp tư  sản. Vì vậy, xét về bản chất họ là giai cấp cách mạng triệt để nhất chống lại chế độ áp bức, bóc lột tư bản chủ nghĩa.
            Điều kiện sinh hoạt khách quan của giai cấp công nhân quy định rằng, họ chỉ có thể tự giải phóng bằng cách giải phóng toàn xã hội khỏi chế độ tư bản chủ nghĩa. Trong cuộc cách mạng ấy, họ không mất gì ngoài xiềng xích và được cả thế giới về mình. 
    - Thứ tư : Địa vị kinh tế - xã hội khách quan không chỉ khiến giai cấp công nhân trở thành giai cấp duy nhất có sứ mệnh lịch sử, mà còn tạo cho giai cấp công nhân những khả năng để họ hoàn thành sứ mệnh lịch sử : đó là khả năng đoàn kết, thống nhất  giai cấp, khả năng đoàn kết với các giai cấp lao động, các dân tộc bị áp bức trên thế giới; khả năng giác ngộ về địa vị lịch sử của gia cấp mình; khả năng hành động để từng bước đạt mục tiêu của cách mạng; khả năng đi đầu trong cuộc đấu tranh chống giai cấp tư sản và xây dựng xã hội mới.
Lịch sử thế giới đã chứng minh những kết luận C.Mác, Ph.Angghen và V.I.Lênin về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là đúng đắn. Tuy nhiên, cuộc đấu tranh nhằm thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân không diễn ra một cách bằng phẳng, dễ dàng. Sau sự sụp đổ CNXH hiện thực ở Liên Xô và Đông Au, phong trào công nhân thế giới đang đứng trước những khó khăn, thử thách to lớn. Tuy nhiên xét về toàn bộ sự phát triển của  xã hội loài người thì giai cấp công nhân - lực lượng sản xuất tiến bộ nhất của thời đại, vẫn đang ngày càng hoàn thiện những điều kiện khách quan cho việc thực hiện sứ mệnh lịch sử  của mình. 
III. NHỮNG NHÂN TỐ CHỦ QUAN TRONG QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN SỨ MỆNH LỊCH SỬ CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN
Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân xuất hiện một cách khách quan. Song, để nó trở thành hiện thực thì phải thông qua  hoạt động của nhân tố chủ quan của giai cấp công nhân. Trong những nhân tố chủ quan, việc thành lập ra Đảng Cộng sản trung thành với sự nghiệp, lợi ích của giai cấp công nhân là yếu tố quyết định nhất đảm bảo cho giai cấp công nhân có thể hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình. 
1.      Bản thân giai cấp công nhân
Trong suốt quá trình lịch sử hình thành và phát triển; giai cấp công nhân đã không ngừng hoạt động và trưởng thành về mọi mặt, cụ thể như:
Về số  lượng, giai cấp công nhân là sản phẩm của nền sản xuất công nghiệp hiện đại nên nó không ngừng tăng lên rõ rệt ở tất cả các nước, ở các lĩnh vực, kể cả trong “nền kinh tế tri thức”. Sự phát triển của  nền sản xuất công nghiệp hiện đại làm xuất hiện nhiều ngành nghề mới, vì vậy cơ cấu giai cấp công nhân  ngày càng đa dạng (Theo Tổ chức lao động Quốc tế (ILO) năm 1900 toàn thế giới có 80 triệu công nhân; năm 1990 có 600 triệu; năm 1998 có 800 triệu, …).
Về chất lượng, sự phát triển của khoa học - công nghệ và nền sản xuất công nghiệp hiện đại làm cho trình độ học vấn, trình độ tay nghề, trình độ nghiệp vụ, trình độ nhận thức, trình độ tổ chức sản xuất của giai cấp công nhân ngày càng cao.
Là hiện thân của phạm trù lao động trong nền sản xuất công nghiệp tư bản chủ nghĩa, giai cấp công nhân bị giai cấp tư sản bóc lột giá trị thặng dư để làm tăng tư bản của chúng lên; giai cấp vô sản trải qua nhiều giai đoạn tiến triển khác nhau của cuộc đấu tranh giai cấp. Cuộc đấu tranh của họ chống giai cấp tư sản bắt đầu ngay từ lúc họ mới ra đời.
Thoạt đầu, cuộc đấu tranh được tiến hành bởi những công nhân riêng lẻ, kế đến là những công nhân cùng một công xưởng, và sau đó là bởi những công nhân cùng một ngành công nghiệp, cùng một địa phương chống lại người tư sản trực tiếp bóc lột họ. Việc tăng thêm phương tiện giao thông do đại công nghiệp tạo ra giup cho công nhân các địa phương tiếp súc với nhau. Sự tiếp súc đó đã tập trung nhiều cuộc đấu tranh địa phương, đâu đâu cũng mang tính chất giống nhau, thành một cuộc đấu tranh toàn quốc, thành một cuộc đấu tranh giai cấp. Bất cứ cuộc đầu tranh giai cấp nào cũng là một cuộc đấu tranh chính trị. Từ đấu tranh kinh tế trước mắt như: đập phá máy móc, đình công, bãi công… Nửa đầu thế kỷ XIX, phong trào công nhân phát triển mạnh trong các nước tư bản chủ nghĩa, tiêu biểu là: Phong trào hiến chương ở Anh, khởi nghĩa công nhân Li – Ong ở Pháp, khởi nghĩa công nhân Xi – Lê – Di ở Đức… Phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân có tổ chức, là bước chuyển phong trào công nhân sang hoạt động chính trị, đấu tranh chính trị, thông qua các tổ chức nghiệp đoàn, công đoàn. Sự tổ chức của những người vô sản thành giai cấp phát triển cao, dẫn đến hình thành chính đảng của giai cấp công nhân – Đảng Cộng sản.
1.      Tính tất yếu, quy luật hình thành và phát triển đảng của giai cấp công nhân .
Những năm 40 của thế kỷ XIX, phong trào công nhân phát triển mạnh, đòi hỏi sự ra đời lý luận khoa học dẫn đường. C. Mác và Ph. Angghen, hai nhà khoa học và cách mạng thiên tài đã sáng tạo ra học thuyết khoa học và cách mạng của giai cấp công nhân, đáp ứng những đòi hỏi khách quan của sự phát triển lịch sử. Chủ nghĩa Mác phản ánh đúng lỳ luận của phong trào công nhân, chỉ ra một cách đúng đắn con đường, điều kiện, biện pháp… để giải phóng giai cấp công nhân, giải phóng xã hội. Vì vậy, nó được giai cấp công nhân tiếp thu nhanh chóng và coi đó là “ vũ khí lý luận” của giai cấp mình.
       Khi lý luận của Chủ nghĩa Mác thâm nhập vào phong trào công nhân, bộ phận ưu tú trong giai cấp công nhân tiếp thu được, họ dựa vào lý luận của chủ nghĩa Mác để xây dựng cương lĩnh, đường lối, chiến lược, sách lược. Họ đứng ra tổ chức, lãnh đạo cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân ở nước mình. Chính bộ phận ưu tú trong giai cấp công nhân đã hình thành nên chính Đảng của giai cấp công nhân ở mỗi nước - đó là Đảng Cộng sản.
V.I. Lênin đã khái quát, Đảng Cộng sản là sự kết hợp phong trào công nhân với chủ nghĩa xã hội khoa học. 
Sự hình thành chính Đảng của giai cấp công nhân là tất yếu. Tuy nhiên ở mỗi nước, sự kết hợp ấy lại được thực hiện bằng những con đường khác nhau tuỳ theo điều kiện lịch sử cụ thể. Đối với những nước thuộc địa, nửa thuộc địa, sự hình thành chính Đảng của giai cấp công nhân (Đảng Cộng sản) thường là sự kết hợp giữa Chủ nghĩa Mác Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước chân chính.
       Khi Đảng Cộng sản ra đời và giữ được vai trò lãnh đạo, cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân  chuyển từ  đấu tranh tự phát sang đấu tranh tự giác trong mỗi hành động với tư cách là một giai cấp thực sự  cách mạng. Do đó, sự ra đời của Đảng cộng sản  là nhân tó quyết định  thực hiện thắng lợi sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.
3. Mối quan hệ giữa Đảng Cộng sản với giai cấp công nhân
Đảng chính trị là tổ chức cao nhất của một giai cấp, nó đại biểu tập trung cho nguyện vọng, trí tuệ, lợi ích của giai cấp đó. Đối với giai cấp công nhân đó là Đảng Cộng sản, mối quan hệ giữa Đảng Cộng sản với giai cấp công nhân được thể hiện như sau :
- Đảng Cộng sản không những đại biểu cho trí tuệ và lợi ích của giai cấp công nhân mà còn đại biểu cho toàn thể nhân dân lao động và dân tộc.  
Đảng Cộng sản là tổ chức chính trị cao nhất, chặt chẽ nhất  của giai cấp công nhân, là đội tiên phong chiến đấu, là bộ tham mưu có trình độ lý luận cao nhất, vững vàng, kiên định về lập trường giai cấp, có đường lối chiến lược và sách lược đúng đắn,   để lãnh đạo giai cấp công nhân và cả dân tộc hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình.
- Giai cấp công nhân là cơ sở xã hội - giai cấp của Đảng Cộng sản, là nguồn bổ sung lực lượng làm cho Đảng Cộng sản tồn tại và lớn mạnh. Do đo, giữa Đảng Cộng sản và giai cấp công nhân có mối quan  hệ hữu cơ, không  thể tách rời. Những đảng viên của Đảng Cộng sản có thể không phải là công nhân, nhưng phải là người giác ngộ về sứ mệnh của giai cấp công nhân, phải đứng trên lập trường của giai cấp công nhân và phải phấn đấu vì lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc.
Theo quan điểm của đảng ta: Với một Đảng Cộng sản chân chính, thì sự lãnh đạo của Đảng chính là sự lãnh đạo của giai cấp công nhân đối với toàn xã hội.
IV. SỨ MỆNH LỊCH SỬ CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN VIỆT NAM
1. Sự ra đời, đặc điểm và điều kiện giai cấp công nhân vươn lên thành giai cấp lãnh đạo cách mạng Việt Nam
Vào đầu thế kỷ XX, với chính sách khai thác thuộc địa của chủ nghĩa thực dân Pháp ở Việt Nam, giai cấp công nhân Việt Nam đã ra đời trước giai cấp tư sản Việt Nam và là giai cấp đối kháng trực tiếp với tư bản thực dân Pháp. Do ra đời từ nước thuộc địa, nửa phong kiến, nên giai cấp công nhân Việt Nam số lượng ít, trình độ nghề nghiệp thấp, còn mang nhiều tàn dư  tâm lý và tập quán của nông dân, song giai cấp công nhân Việt Nam đã nhanh chóng vươn lên đảm đương vai trò lãnh đạo cách mạng Việt Nam do những điều kiện sau đây: 
          - Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời trong lòng một dân tộc có truyền thống chống ngoại xâm, vừa chịu nỗi nhục mất nước vừa bị tư sản đế quốc áp bức, bóc lột, làm cho lợi ích giai cấp và lợi ích dân tộc kết hợp làm một, khiến động cơ, nghị lực và tính triệt để cách mạng của giai cấp công nhân Việt Nam được tăng lên gấp bội.
- Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời và trưởng thành trong không khí sục sôi của các phong trào yêu nước và các cuộc khởi nghĩa chống thực dân Pháp. Tuy những cuộc khởi nghĩa này đều đều thất bại, nhưng nó có tác dụng cổ vũ tinh thần yêu nước,  ý chí bất khuất và lòng quyết tâm của giai cấp công nhân Việt nam.
- Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời, trưởng thành khi phong trào Cộng sản và công nhân thế giới phát triển mạnh. Đặc biệt là thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 đã cổ vũ giai cấp công nhân Việt Nam nhận lấy sứ mệnh lịch sử lãnh đạo cách mạng giải phóng dân tộc, đồng thời nó khích lệ nhân dân ta lựa chọn, tiếp nhận con đường cách mạng của Chủ nghĩa Mác-Lênin và đi theo con đường cách mạng của giai cấp công nhân Việt Nam.
- Giai cấp công nhân Việt Nam đa số mới xuất thân từ giai cấp nông dân và các tầng lớp lao động khác, đây là điều kiện thuận lợi để xây dựng khối liên minh công, nông vững chắc và khối đại đoàn kết dân tộc rộng rãi, đảm bảo sự lãnh đạo của giai cấp công nhân Việt Nam trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng .
2. Vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân trong cách mạng Việt Nam
Giai cấp công nhân Việt Nam tuy mới ra đời và ngay cả khi chưa có Đảng, đã tự tổ chức nhiều cuộc đấu tranh chống bọn tư bản thực dân. Những cuộc đấu tranh đó đã tác động sâu sắc đến các tầng lớp lao động khác, đặc biệt là nông dân, thanh niên, sinh viên. Khi có sự tác động của chủ nghĩa Mác Lênin đã hình thành chính Đảng của giai cấp công nhân Việt Nam.
Hồ Chí Minh đã khái quát sự hình thành của Đảng Cộng sản Việt Nam: đó là sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam.
Sau khi Đảng cộng sản Việt Nam ra đời, Đảng đã mang yếu tố tự giác vào phong trào công nhân, phong trào yêu nước do đó làm cho phong trào cách mạng nước ta có bước phát triển nhảy vọt. Dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, cách mạng giải phóng dân tộc đã đi đến thắng hoàn toàn.
    Hiện nay trong công cuộc xây dựng đất nước, đội ngũ công nhân Việt Nam bao gồm những người lao động chân tay và lao động trí óc hoạt động sản xuất trong ngành công nghiệp và dịch vụ công nghiệp thuộc các thành phần kinh tế, tạo thành lực lượng thống nhất, đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Giai cấp công nhân Việt Nam được vũ trang bằng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, đang giữ vai trò lãnh đạo công cuộc đổi mới và phát triển đất nước. Họ là lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, là cơ sở xã hội chủ yếu của Đảng và Nhà nước, là hạt nhân vững chắc trong khối liên minh công nhân - nông dân - trí thức, là nền tảng của khối đại đoàn kết toàn dân tộc .
Tuy nhiên, do hoàn cảnh lịch sử, do điều kiện kinh tế - xã hội quy định, nên giai cấp công nhân Việt Nam còn có một số hạn chế như : số lượng ít, chưa được rèn luyện nhiều trong công nghiệp hiện đại, trình độ văn hóa và tay nghề còn thấp …Vì vậy, nó cũng có những ảnh hưởng nhất định đến vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng xã hội mới.
Để khắc phục những nhược điểm trên, Đảng ta chỉ rõ : “cùng với quá trình phát triển công nghiệp và công nghệ theo xu hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, cần xây dựng giai cấp công nhân phát triển về số lượng, giác ngộ về giai cấp, vững vàng về chính trị, tư tưởng, có trình độ học vấn, tay nghề cao, có năng lực tiếp thu và sáng tạo công nghệ mới, lao động đạt năng suất, chất lượng, hiệu quả cao, vươn lên làm tròn sứ mệnh lịch sử của mình(1).
Công cuộc đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa do Đảng ta khởi xướng đang thu được những thắng lợi to lớn, giai cấp công nhân Việt Nam đang đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nhằm thực hiện mục tiêu dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đó là bằng chứng chỉ rõ năng lực lãnh đạo của giai cấp công nhân mà không có lực lượng xã hội nào có thể thay thế được.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng chỉ rõ:
Đối với giai cấp công nhân, phát triển về số lượng, chất lượng và tổ chức; nâng cao giác ngộ và bản lĩnh chính trị, trình độ học vấn và nghề nghiệp, xứng đáng là một lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”(2).






CHUƠNG IV
CÁCH MẠNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
I. CÁCH MẠNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VÀ TÍNH TẤT YẾU CỦA NÓ
1. Quan niệm về cách mạng xã hội chủ nghĩa 
 Cách mạng xã hội chủ nghĩa là một cuộc cách mạng nhằm thay thế chế độ tư bản hoặc tiền tư bản bằng chế độ xã hội chủ nghĩa, trong đó giai cấp công nhân đóng vai trò lãnh đạo cùng với nhân dân lao động đứng lên xây dựng một xã hội mới công bằng, dân chủ, văn minh.
Cách mạng xã hội chủ nghĩa được hiểu theo hai nghĩa:
+ Theo nghĩa hẹp: cách mạng xã hội chủ nghĩa là một cuộc cách mạng chính trị, cuộc cách mạng này kết thúc khi giai cấp công nhân cùng nhân dân lao động giành được chính quyền, thiết lập nên nhà nước chuyên chính vô sản – nhà nước của giai cấp công nhân và quần chúng nhân dân lao động.
+ Theo nghĩa rộng: cách mạng xã hội chủ nghĩa là quá trình cải biến cách mạng toàn diện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Nó bắt đầu bằng một cuộc cách mạng chính trị nhằm để giành chính quyền về tay giai cấp công nhân và nhân dân lao động và kết thúc khi đã xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.                                                              
2. Nguyên nhân của cách mạng xã hội chủ nghĩa
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, nguyên nhân sâu xa của những cuộc cách mạng xã hội là do sự phát triển của lực lượng sản xuất. Theo quy luật chung của sự phát triển xã hội, khi lực lượng sản xuất không ngừng phát triển, mâu thuẫn với quan hệ sản xuất đã lỗi thời, kìm hãm nó, tất yếu phải thay thế bằng một quan hệ sản xuất mới tiến bộ hơn.
C. Mác và Ph. Ăngghen: “ Từ chỗ là hình thức phát triển của các lực lượng sản xuất, những quan hệ ấy trở thành những xiềng xích của các lực lượng sản xuất. Khi đó bắt đầu một cuộc cách mạng xã hội”(1)
Trong thời cận đai của chủ nghĩa tư bản, quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa là hình thức phát triển của lực lượng sản xuất mới, cách mạng công nghiệp đã tạo ra sự phát triển hết sức nhanh chóng về tính chất và trính độ của các lực lượng sản xuất xã hội ;  sự phát triển của lực lượng sản xuất ây liền mâu thuẫn với quan hệ sản xuất mang tính chất tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất. C. Mác: “ Sự tập trung tư liệu sản xuất và xã hội hóa lao động đã đạt đến cái điểm mà chúng không còn thích hợp với cái vỏ tư bản của chúng nữa… nền sản xuất tư bản chủ nghĩa lại đẻ ra sự phủ định bản thân nó, với tính tất yếu của một quá trình lịch sử - tự nhiên”(2).
Biểu hiện mâu thuẫn trong lĩnh vực kinh tế là tính tổ chức, tính kế hoạch trong từng doanh nghiệp ngày càng tăng với tính vô tổ chức của sản xuất toàn xã hội do tính cạnh tranh của nền sản xuất hàng hóa tư bản chủ nghĩa gây ra.
Quy luật cạnh tranh, tính chất vô chính phủ trong sản xuất dẫn tới khủng hoảng thừa, buộc một số doanh nghiệp phải ngừng sản xuất. Dưới chủ nghĩa tư bản, giai cấp công nhân sống bằng việc bán sức lao động, do vậy, một khi sản xuất đình trệ làm cho công nhân không có việc làm, họ đã đứng lên đấu tranh chống lại các nhà tư sản và giai cấp tư sản.

1. C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội 1993, t. 13, tr. 15.           2. Sđd, t.23, tr. 1059.

                Tuy rằng, mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong chế độ tư bản chủ nghĩa phát triển ngày càng gay gắt, nhưng quy luật phát triển xã hội không tự nó xảy ra mà phải thông qua hoạt động của con người. Cách mạng xã hội chủ nghĩa muốn nổ ra, giai cấp công nhân phải nhận thức được sứ mệnh lịch sử của mình, thực hiện việc tuyên truyền vận động nhân dân lao động lật đổ chính quyền nhà nước của giai cấp tư sản để giành lấy chính quyền, giành lấy dân chủ.
3. Những điều kiện của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa
            Cách mạng xã hội chủ nghĩa nổ ra trên cơ sở điều kiện khách quan và điều kiện chủ quan như sau: 
a. Điều kiện khách quan của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa
C. Mác xác định: Đại công nghiệp “dẫn đến chỗ làm chín muồi những mâu thuẫn và đối kháng của hình thức tư bản chủ nghĩa của quá trình sản xuất, và do đó đồng thời làm chín muồi cả những nhân tố để hình thành xã hội mới và những nhân tố làm đảo lộn xã hội cũ” (1). Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, điều kiện khách quan của cách mạng xã hội chủ nghĩa quy tụ vào sự phát triển của nền sản xuất đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa:
Thứ nhất, dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, sự phát triển nền sản xuất đại công nghiệp là cơ sở tập trung sản xuất, hình thành và phát triển các thành phố công nghiệp. Quy luật cạnh tranh đẩy nhanh quá trình tích tụ và tập trung tư bản, hình thành những tập đoàn tư bản lớn.  Sự phát triển của nền công nghiệp hiện đại không những làm tăng thêm số lượng, chất lượng người công nhân, mà còn tập họ lại thành những khối quần chúng lớn, giai cấp công nhân thấy rõ lực lượng của mình hơn.
Thứ hai, giai cấp tư sản, tức là tư bản mà lớn lên thì giai cấp vô sản, giai cấp công nhân hiện đại – tức là giai cầp chỉ có thể sống với điều kiện là kiếm được việc làm, và chỉ kiếm được việc làm nếu lao động của họ làm tăng thêm tư bản – cũng phát triển theo. Việc sử dụng máy móc và sự phân công lao động mà tăng lên thì tổng số lao lực cũng tăng lên theo, hoặc là tăng thêm giờ làm, hoặc là do tăng thêm lượng lao động phải làm trong một thời gian nhất định, do cho máy chạy nhanh thêm, v.v.. Giai cấp công nhân không những là nô lệ của giai cấp tư sản, của Nhà nước tư sản, mà hàng ngày, hàng giờ còn là nô lệ của máy móc, của người đốc công và trước hết là của chính người tư sản chủ công xưởng. Sự phát triển nền sản xuất đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa; giai cấp công nhân ngày càng nhận thấy rõ kẻ thù của mình là giai cấp tư sản và chủ nghĩa tư bản.
Thứ ba, trong giai đoạn chủ nghĩa đế quốc, với khát vọng giàu có và quyền lực, giai cấp tư sản đã tiến hành những cuộc chiến tranh xâm lược các nước khác, biền những nước này thành thuộc địa của chúng; Bằng mọi biện pháp bóc lột tài nguyên thiên nhiên và sức lao động ở các nước thuộc địa, điều đó làm cho mâu thuẫn giữa các nước đế quốc tư bản với các nước thuộc địa ngày càng trở nên gay gắt.
Để giải quyết những mâu thuẫn trên, giai cấp công nhân phải tiến hành cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa nhằm xóa bỏ mọi áp bức của chủ nghĩa tư bản, xóa bỏ quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, thiết lập quan hệ sản xuất mới và chế độ xã hôi mới xã hội xã hội chủ nghĩa.
b. Điều kiện chủ quan của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa
Khi có điều kiện khách quan, nhưng thiếu điều kiện chủ quan thì cách mạng xã hội chủ nghĩa cũng không thể nổ ra.
Điều kiện chủ quan có ý nghĩa quyết định nhất là sự trưởng thành của giai cấp công nhân, đặc biệt là khi có sự ra đời của Đảng Cộng sản, đội tiên phong của giai cấp công nhân. Đảng Cộng sản thông qua hệ tư tưởng của mình là chủ nghĩa Mác – Lênin, giai cấp công nhân nhận thức được rằng : chỉ có thể xóa bỏ chế độ nô lệ làm thuê nhằm giải phóng mình và giải phóng toàn xã hội bằng một cuộc cách mạng thắng lợi triệt để, khi đó giai cấp công nhân mới được giải phóng thực sự. Thông qua chủ nghĩa Mác – Lênin, giai cấp công nhân nhận thức được sứ mệnh lịch sử của mình. Thông qua hoạt động của Đảng Cộng sản, giai cấp công nhân có đường lối, chiến lược, sách lược rõ ràng, đến lúc đó cách mạng xã hội chủ nghĩa mới có thể thắng lợi.
Trong chế độ tư bản chủ nghĩa, không chỉ giai cấp công nhân bị áp bức bóc lột mà cả những giai cấp, tầng lớp lao động khác cũng bị áp bức bóc lột nặng nề. Giai cấp công nhân có lợi ích cơ bản thống nhất với lợi ích của giai cấp nông dân, tầng lớp trí thức, những người thợ thủ công,v.v.. Điều đó tạo ra khả năng cho giai cấp công nhân liên minh với các giai cấp, tầng lớp nhân dân lao động khác thành một lực lượng hùng mạnh, dưới sự lãnh đạo của giai cấp mình thực hiện cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa.                                                                                              
4.  Tiến trình của cách mạng xã hội chủ nghĩa
Cách mạng xã hội chủ nghĩa thực hiên với một tiến trình liên tục gồm hai giai đoạn:
Giai đoạn thứ nhất là giai đoạn giai cấp vô sản tự xây dựng thành giai cấp thống trị, là giai đoạn giành lấy dân chủ.
V.I Lênin xác định: giành chính quyền là vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách mạng.
Đập tan nhà nước của giai cấp tư sản, thiết lập chính quyền của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trở thành mục tiêu trực tiếp của lực lượng cách mạng dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân. Để thực hiện điều đó cần phải có tình thế cách mạng.
Tình thế cách mạng: 
Tình thế cách mạng xuất hiện khi giai cấp thống trị không thể thống trị như trước được nữa, những người bị áp bức không thể tiếp tục cuộc sống như trước, giai cấp lãnh đạo cách mạng đã đủ năng lực cách mạng, phát động được cuộc đấu tranh cách mạng của giai cấp những người lao động chống lại giai cấp tư sản. Để cách mạng nồ ra và giành thắng lợi phải có thời cơ cách mạng.
Thời cơ cách mạng:
Ở trong nước, thời cơ cách mạng là lúc giai cấp thống trị tỏ ra hoang mang cực độ, nội bộ mâu thuẫn, xâu xé lẫn nhau trước sự lớn mạnh của phong trào đấu tranh của các lực lượng cách mạng. Lực lượng lãnh đạo cách mạng đã sẵn sàng hành động cho cuộc quyết chiến để giành chính quyền.
Ở ngoài nước, là các lực lượng tiến bộ, đặc biệt là phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân quốc tế ủng hộ cách mạng, kiên quyết đứng lên đấu tranh chống lại âm mưu xâm lược, can thiệp của những lực lượng tư bản, lực lượng đế quốc hiếu chiến, tạo điều kiện cho cách mạng trong nước bùng nổ và giành thắng lợi.
Phương pháp cách mạng:
Tùy thuộc vào tương quan lực lượng giữa cách mạng và phản cách mạng mà giai cấp công nhân có thể sử dụng một trong các phương pháp cách mạng sau đây:
Khi lực lương cách mạng và phản cách mạng tương đương nhau hoặc chênh lệch không lớn thì giai cấp công nhân và nhân dân lao động chỉ có thể sử dụng  phương pháp bạo lực cách mạng dưới hình thức khởi nghĩa vũ trang kết hợp với bãi công chính trị của quần chúng nhân dân, đấu tranh giành chính quyền.
Khi lực lượng cách mạng vượt trội, lấn át được lực lượng phản cách mạng, giai cấp công nhân có thể sử dụng phương pháp đấu tranh hòa bình, dùng sức mạnh của lực lượng cách mạng buộc giai cấp tư sản phải giao chính quyền nhà nước cho giai cấp công nhân và nhân dân lao động.
Giai đoạn thứ hai là, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội:                                                 
Giai cấp công nhân đã nắm chính quyền, sử dụng chính quyền dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. Đó là quá trình xóa bỏ cái bảo thủ lạc hậu, phản nhân văn, đồng thời phải biết tiếp thu, kế thừa những nhân tố tiến bộ tích cực mà nhân loại đạt được, từng bước xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Quá trình đó là nhiệm vụ rất mới mẻ, phức tạp, gian khổ, lâu dài.
II-  MỤC TIÊU, NỘI DUNG VÀ ĐỘNG LỰC CỦA CÁCH MẠNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
1.Mục tiêu của cuộc cách mạng xã hội chủ  nghĩa
Giải phóng con người, giải phóng xã hội là mục tiêu của cuộc cáh mạng xã hội chủ nghĩa. C. Mác và Ph. Ăngghen từ sự nghiên cứu quá trình lịch sử cuộc cách mạng của giai cấp công nhân, đưa ra dự báo tổng quát mục đích của cách mạng vô sản: Trên thực tế, đưa con người từ “VƯƠNG QUỐC CỦA TẤT YẾU” sang “VƯƠNG QUỐC CHÂN CHÍNH CỦA TỰ DO”.
“Thay cho xã hội tư sản cũ với những giai cấp và đối kháng giai cấp của nó, xuất hiện một liên hợp, trong đó sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người” (1).
Để tiến tới mục tiêu nêu trên, cách mạng xã hội chủ nghĩa phải trải qua hai giai đoạn, với mục tiêu cụ thể:
Mục tiêu giai đoạn thứ nhất của cách mạng xã hội chủ nghĩa là giành lấy chính quyền về tay giai cấp công nhân và nhân dân lao động.
Mục tiêu giai đoạn thứ hai của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa là xóa bỏ mọi chế độ người bóc lột người nhằm đưa lại đời sống ấm no cho toàn dân. Khi nạn người bóc lột người bị xóa bỏ thì nạn dân tộc này bóc lột dân tộc khác cũng bị xóa bỏ.
2.  Nội dung của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa
Cách mạng xã hội chủ nghĩa được tiến hành trên các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Trên lĩnh vực chính trị: Giai cấp công nhân và nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, dùng bạo lực cách mạng đấu tranh giành chính quyền. Trong xây dựng chủ nghĩa xã hội: không ngừng nâng cao trình độ dân trí cho nhân dân lao động, mở rộng dân chủ, thu hút nhân dân lao động tham gia vào công việc quản lý nhà nước,  quản lý xã hội, làm cho nhà nước thật sự là của dân, do dân, vì dân.
---------------------------------
1. C. Mác và Ph. Angghen: Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, Nxb. ST, Hà Nội 1975, tr. 81.
Trên lĩnh vực kinh tế:  Nhiệm vụ trọng tâm có ý nghĩa quyết định là ra sức phát triển kinh tế, không ngừng nâng cao năng suất lao động, cải thiện đời sống nhân dân. Muốn vậy đòi hỏi: phải thay đổi vai trò của người lao động đối với tư liệu sản xuất bằng việc thay thế chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất bằng chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa dưới nhiều hình thức thích hợp, gắn người lao động với tư liệu sản xuất; áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, để không ngừng nâng cao năng suất lao động, tạo của cải dồi dào cho xã hội; thực hiện phân phối theo lao động, nâng cao đời sống tinh  thần nhân dân.
Trên lĩnh vực tư tưởng – văn hóa: Trên cơ sở kế thừa có chọn lọc và nâng cao các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc, tiếp thu những giá trị văn hóa văn minh trên thế giới, cách mạng xã hội chủ nghĩa từng bước xây dựng thế giới quan, nhân sinh quan mới cho người lao động, hình thành con người mới xã hội chủ nghĩa giàu lòng yêu nước, thương dân, có bản lĩnh chính trị, có hiểu biết, có năng lực làm chủ xã hội.
3. Động lực của cách mạng xã hội chủ nghĩa
C.Mác – Ph.Ăngghen xác định: “Tất cả những phong trào lịch sử, từ trước đến nay, đều là do thiểu số thực hiện, hoặc đều mưu lợi ích cho thiểu số. Phong trào vô sản là phong trào độc lập của khối đại đa số, mưu lợi ích cho khối đại đa số” (1).
Cách mạng xã hội chủ nghĩa với mục đích của nó: Vĩnh viễn giải phóng toàn xã hội ra khỏi ách bóc lột, áp bức giai cấp, khỏi tình trạng phân chia giai cấp và đấu tranh giai cấp. Do đó, giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác trở thành lực lượng cách mạng xã hội chủ nghĩa. 

1.        C. Mác và Ph. Angghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia , Hà Nội, 1995, t.4, tr. 611.
+ Giai cấp công nhân:
Là giai cấp đại biểu cho phương thức sản xuất mới, có hệ tư tưởng tiên tiến và cách mạng. Thông qua đội tiên phong của mình là Đảng Cộng sản, giai cấp công nhân càng giác ngộ về lợi ích giai cấp, lợi ích dân tộc, do đó giai cấp công nhân vừa là động lực cơ bản, chủ yếu, vừa giữ vai trò lãnh đạo cách mạng xã hội chủ nghĩa, đây là yếu tố quyết định hàng đầu đảm bảo cho sự thắng lợi của cách mạng xã hội chủ nghĩa.
+ Giai cấp nông dân:
Là giai cấp có nhiều lợi ích cơ bản thống nhất với lợi ích của giai cấp công nhân. Với số lượng đông đảo trong dân cư, đây là động lực cách mạng to lớn của cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Trong đấu tranh giành chính quyền cũng như trong xây dựng chủ nghĩa xã hội, giai cấp công nhân chỉ có thể hoàn thành được sứ mệnh lịch sử khi được đại đa số nông dân tham gia ủng hộ, đây là điều kiện đảm bảo cho sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, là cơ sở xây dựng chính quyền nhà nước, đảm bảo cho cách mạng xã hội chủ nghĩa thắng lợi.
+  Tầng lớp trí thức:
Tầng lớp trí thức không đại biểu cho bất kì một phương thức sản xuất nào, không có hệ tư tưởng độc lập. Trí thức phục vụ cho chế độ nào thì mang ý thức hệ của giai cấp đó.
Trong đấu tranh giành chính quyền, cũng như trong xây dựng chủ nghĩa xã hội, trí thức có vai trò rất quan trọng. Trí thức là những người có đóng góp to lớn trong chăm sóc sức khỏe nhân dân, phát triển dân trí, đào tạo nguồn nhân lực cho đất nước; tham gia xây dựng đường lối của Đảng, chính sách của nhà nước và tổ chức thực hiện đường lối, chính sách đó.
Trong cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, lượng giá trị chất xám trong sản phẩm ngày càng tăng thì vai trò động lực phát triển xã hội của trí thức ngày càng cao.
III. LÝ LUẬN CÁCH MẠNG KHÔNG NGỪNG CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN VÀ SỰ VẬN DỤNG Ở VIỆT NAM
1. Lý luận cách mạng không ngừng của chủ nghĩa Mác – Lênin
a)  Quan điểm của C.Mác – Ph.Ăngghen:
Luận chứng về cách mạng vô sản, C.Mác và Ph.Ăngghen xem cách mạng như quá trình phát triển, liên tục, không ngừng, trải qua nhiều giai đoạn khác nhau trong phạm vi một nước cũng như trên phạm vi thế giới. C.Mác – Ph.Ăngghen nêu rõ:  Làm cho cách mạng trở thành không ngừng cho tới khi tất cả các giai cấp hữu sản lớn hay nhỏ bị gạt ra khỏi địa vị thống trị, cho tới khi giai cấp vô sản giành được chính quyền nhà nước, cho tới khi sự liên hớp những người vô sản không những ở trong một nước mà ở trong tất cả các nước chiếm địa vị trên thế giới đều phát triển đến mức khiến cho sự cạnh tranh giữa những người vô sản trong các nước ấy chấm dứt, và ít ra là lực lượng sản xuất có ý nghĩa quyết định được tập trung vào trong tay những người vô sản.
Đối với chúng ta, vấn đề không phải là cải biến chế độ tư hữu mà là thủ tiêu chế độ tư hữu, không phải là che dấu mâu thuẫn giai cấp, mà là tiêu diệt giai cấp, không phải là cải lương xã hội hiện tại mà là xây dựng một xã hội mới.
Trong điều kiện phong trào công nhân chưa đủ mạnh, giai cấp công nhân phải chủ động tham gia vào cuộc cách mạng dân chủ tư sản, song phải luôn giữ được tính độc lập, luôn ý thức được sứ mệnh lịch sử của mình là lật đổ chủ nghĩa tư bản, giành chính quyền, tiến tới xây dựng một xã hội mới cộng sản chủ nghĩa.
Để cho cách mạng phát triển không ngừng, giai cấp công nhân phải liên minh chặt chẽ với giai cấp nông dân trong đấu tranh cách mạng.
b) Quan điểm của Lênin :
Lênin căn cứ vào hoàn cảnh lịch sử mới: chủ nghĩa tư bản đã chuyển sang chủ nghĩa đế quốc, phát triển lý luận cách mạng xã hội chủ nghĩa và lý luận cách mạng không ngừng trong giai đoạn chủ nghĩa đế quốc, với hai luận điểm cơ bản:
Thứ nhất, Sự phát triển không đếu về mặt kinh tế và chính trị, là quy luật tuyệt đối của chủ nghĩa tư bản. Do đó, chúng ta thấy rằng chủ nghĩa xã hội có thể thắng trước hết trong một số ít nước tư bản chủ nghĩa hoặc thậm chí trong một nước tư bản, tách riêng ra mà nói.
Thứ hai, với sự dúp đỡ của giai cấp vô sản các nước tiên tiến các nước lạc hậu có thể tiến tới chế độ Xô Viết, và qua những giai đoạn phát triển nhất định, tiến tới chủ nghĩa cộng sản, không phải trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa.
Lênin phân tích sâu sắc tính hình nước Nga cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Nước Nga là khâu yếu nhất trong hệ thống tư bản chủ nghĩa, là nơi tập trung nhiều mâu thuẫn: nông dân mâu thuẫn với địa chủ, công nhân mâu thuẫn với giai cấp tư sản gay gắt. Giai cấp công nhân tuy ra đời muộn nhưng sớm trưởng thành, nước Nga trở thành trung tâm của cách mạng thế giới. Trong long nước Nga “ đế quốc-phong kiến-quân phiệt” xuất hiện cùng một lúc hai tiền đề của cuộc cách mạng: Tiền đề cách mạng xã hội chủ nghĩa và tiền đề của cách mạng dân chủ.                Trong điều kiện lịch sử nước Nga Sa Hoàng tham gia cuộc đại chiến thế giời lần thứ nhất; trong nước cùng một lúc xuất hiện nhiều trào lưu cách mạng. Lênin nhận rõ: hòa bình, dân sinh, dân chủ là mẫu số chung của các tráo lưu đó. Lênin đưa ra cương lĩnh cách mạng là, tiến hành một cuộc cách mạng dân chủ triết để rồi chuyển biến lên cách mạng xã hội chủ nghĩa.   Trước tính thế cách mạng Nga; Lênin chủ trương: giai cấp công nhân Nga không chỉ tham gia vào cách mạng dân chủ tư sản, mà phải vươn lên nắm lấy quyền lãnh đạo, thực hiện cách mạng dân chủ tư sản kiểu mới, đánh đổ phong kiến, cô lập tư sản phản động, thiết lập chuyên chính dân chủ của giai cấp công nhân và nông dân. Khi cách mạng dân chủ tư sản kiểu mới ở Nga thắng lợi thì chuyển sang cách mạng xã hội chủ nghĩa, giữa hai cuộc cách mạng không có bức tường thành ngăn cách.
Điều kiện để chuyển từ cách mạng dân chủ tư sản kiểu mới sang cách mạng xã hội chủ nghĩa:
- Sự lãnh đạo của giai cấp công nhân thông qua chính đảng của nó được đảm bảo và không ngừng củng cố.
- Khối liên minh công nông được giữ vững và phát triển trên cơ sở một đường lối thích hợp với từng giai đoạn cách mạng.
- Chính quyền dân chủ cách mạng được củng cố để hoàn thành nhiệm vụ của nó ở giai đoạn thứ nhất, đồng thới chuẩn bị những điều kiện để chuyển sang giai đoạn thứ hai.
2.  Sự vận dụng lý luận cách mạng không ngừng của Đảng ta.
a) Tính tất yếu của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở Việt Nam :
Thực dân Pháp xâm lược Việt Nam, chúng biến nước ta trở thành một nước thuộc địa nửa phong kiến. Nhiều phong trào yêu nước đã đứng lên đấu tranh chống thực dân Pháp giành độc lập dân tộc, nhưng sự nghiệp cứu nước của họ không thành. Bởi lẽ, họ dựa vào ý thức hệ phong kiến, tư sản, tiểu tư sản, nên không đáp ứng được yêu cầu dân chủ của thời đại mới, không lôi cuốn được đông đảo nhân dân tham gia ủng hộ. Trong khi đó cách mạng Tháng Mười Nga năm1917 đã mở ra một thời đại mới làm thức tỉnh các dân tộc bị áp bức, đứng lên giành độc lập dân tộc, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, từng bước tiến lên chủ nghĩa xã hội, giải phóng con người khỏi mọi xiềng xích.
Giai cấp công nhân Việt Nam mới được hình thành, số lượng không đông, nhưng có một chất lượng hơn hẳn các giai cấp khác. Là giai cấp bị ba tầng áp bức bóc lột, sống trong cảnh nước mất nhà tan nên giai cấp công nhân Việt Nam sớm trưởng  thành về ý thức dân tộc, ý thức giai cấp, tỏ rõ là một lực lượng kiên cường trong đấu tranh cách mạng.
Trong quá trình bôn ba tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã đến với chủ nghĩa Mác-Lênin, tích cực tuyên truyền chủ nghĩa Mác –Lênin vào Việt Nam, đưa đến việc thành lập Đảng Cộng sản ở Việt Nam vào 3-2-1930, mở ra cho cách mạng Việt Nam một trang sử mới: thoát khỏi sự bế tắc về đường lối chính trị. Đường lối đó chỉ ra rằng: muốn đấu tranh thắng lợi, cách mạng Việt Nam phải kết hợp hai sự nghiệp giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp của những người lao động, vì vậy tất yếu phải tiến hành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự nghiệp đấu tranh của nhân dân Việt Nam đã kết hợp hai nhiệm vụ: Giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp những người lao động khỏi sự áp bức, bóc lột của thực dân, phong kiến. Thắng lợi cách mạng Tháng Tám năm 1945, là bằng chứng lịch sử của sự kết hợp cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở Việt Nam.
b) Tính tất yếu chuyển biến từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân lên cách mạng xã hội chủ nghĩa:
Trong Cương lĩnh cách mạng đầu tiên, Đảng ta khẳng định tính tất yếu chuyển từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân lên cách mạng xã hội chủ nghĩa: “ Làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”(1).
Sau cách mạng Tháng Tám 1945, thực dân Pháp trở lại xâm lược nước ta. Nhân dân Việt Nam phải vừa kháng chiến vừa kiến quốc với phương châm dựa vào sức mình là chính, dựa vào sức dân, xây dựng chính quyền của nhân dân, do dân, vì dân.
Nhà nước dân chủ nhân dân, chính quyền của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân đầu tiên trong lịch sử Việt Nam, vừa mới thành lập sau thắng lợi của cách mạng Tháng Tám đã từng bước thực hiện nhiệm vụ cách mạng dân chủ nhằm chuan bị những tiền đề trực tiếp cho cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Thực tiễn lịch sử đã chứng minh tính tất yếu, sự giao kết giữa cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Thắng lợi trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, cả nước Việt Nam đã có đủ điều kiện thực hiện cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa trong phạm vi cả nước. Trải qua những thăng trầm của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở trong nước và trên phạm vi thế giới: Từ đường lối và mục tiêu cách mạng Việt Nam là nhất quán; từ sự lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với cách mạng qua các giai đoạn; từ sự nhận thức trên cơ sở khoa học thời đại chúng ta đang sống “ loài người vẫn đang trong thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội” (1)… Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhân dân Việt Nam hiện nay vẫn giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện đổi mới đúng đắn thực hiện mục tiêu xã hội chủ nghĩa bằng những hình thức, bước đi và biện pháp phù hợp với những điều kiện lịch sử.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X  của Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: “ Hai mươi năm qua, với sự nỗ lực phấn đấu của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, công cuộc đổi mới ở nước ta đã đạt những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử” (2).
Những thành tựu cơ bản đó là:
- Đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế – xã hội, có sự thay đổi cơ bản và toàn diện.
- Kinh tế tăng trưởng khá nhanh, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được đẩy mạnh.
- Đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt.
- Hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết dân tộc được củng cố và tăng cường; Chính trị – xã hội ổn định; quốc phòng và an ninh được giữ vững.
- Vị thế nước ta trên trường quốc tế không ngừng nâng cao.
- Sức mạnh tổng hợp của quốc gia đã tăng lên rất nhiều, tạo ra thế và lực mới cho đất nước tiếp tục đi lên với triển vọng tốt đẹp. 
Những thành tựu đó chứng tỏ đường lối đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam là đúng đắn, phù hợp với thực tiễn Việt Nam.
-----------------------------------
1.       Đảng Cộng sản Việt nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 1996, tr. 76.
2.       Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr. 67 -68.
CHƯƠNG V
THỜI ĐẠI NGÀY NAY
I- KHÁI NIỆM VỀ THỜI ĐẠI VÀ THỜI ĐẠI NGÀY NAY
1.  Quan niệm về thời đại và cơ sở phân chia thời đại lịch sử
a)  Quan niệm về thời đại
Thời đại là một khái niệm khoa học dùng để phân kỳ lịch sử xã hội, phân biệt những nấc thang phát triển lịch sử – tư nhiên của xã hội loài người.
Trong lịch sử nhân loại đã có không ít nhà tư tưởng, khoa học bàn đến thời đại , nhất là từ thế kỷ XVII đến nay. 
Xuất phát từ những cơ sở khác nhau, sự phân chia các thời đại lịch sử nhân loại có những nội dung khác nhau.
- Nhà xã hội chủ nghĩa không tưởng Pháp:  Phuriê ( 1772 – 1837 )  chia lịch sử phát triển xã hội loài người thành bốn giai đoạn: Mông muội, dã man, gia trưởng, văn minh.
- Nhà nhân chủng học người Mỹ: Moócgan ( 1818 – 1881 )  lại phân chia thành ba giai đoạn: mông muội, dã man và văn minh.
- Nhà tương laihọc người Mỹ: Anvin Tôpphlơ, chia lịch sử phát triển nhân loại thành ba nền văn minh: văn minh nông nghiệp, văn minh công nghiệp và văn minh hậu công nghiệp.
Việc nghiên cứu thời đại lịch sử có một ý nghĩa lớn. Có hiểu được thời đại chúng ta đang sống, thì chúng ta mới có thể định ra đúng đắn sách lược của chúng ta; và chỉ trên cơ sở hiểu biết những đặc điểm cơ bản của thời đại, chúng ta mới có thể tính đến những đặc điểm chi tiết của nước này, nước nọ.

   b) Cơ sở phân chia thời đại lịch sử
 Chủ nghĩa Mác – Lênin căn cứ vào hai cơ sở để phân chia các thời đai tiến triển dần của xã hội loài người:
Thứ nhất, lý luận về hình thái kinh tế – xã hội.
C.Mác và Ph. Angghen: “ Trong mỗi thời đại lịch sử, phương thức chủ yếu của sản xuất kinh tế và trao đổi cùng với cơ cấu xã hội do phương thức đó quyết định, đã cấu thành cái cơ sở cho lịch sử chính trị của thới đại và lịch sử phát triển trí tuệ của thời đại cài cơ sở chỉ có xuất phát từ nó mời cắt nghĩa được lịch sử đó” (1). Sự khác nhau giữa các thời đại là sự khác nhau ở trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất cả cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng tức là các yếu tố hợp thành hình thái kinh tế – xã hội. Nó nêu lên lịch sử phát triển nhân loại trong mỗi thời kỳ lịch sử một cách toàn diện.
Thứ hai, căn cứ vào sự thay đổi vị trí trung tâm của các giai cấp trong xã hội.
 Sự chuyển biến từ hình thái kinh tế-xã hội này sang hình thái kinh tế-xã hội khác cao hơn không diễn ra tự phát mà thông qua hoạt động của giai cấp tiên tiến và những lực lượng cách mạng.
Trong xã hội có giai cấp và đối kháng giai cấp, mỗi hình thái kinh tế-xã hội đều có một giai cấp giữ vị trí trung tâm của thời đại đó. Một giai cấp được coi là trung tâm khi hội đủ các điều kiện : là giai cấp đại biểu cho phương thức sản xuất mới ; là giai cấp đại biểu cho xu hướng vận động của lịch sử ; nó có khả năng tập hợp các tầng lớp lao động khác vào cuộc đấu tranh xóa bỏ chế độ cũ, thiết lập chế độ mới.
2. Thời đại ngày nay và các giai đoạn chính của nó
   a)  Quan niệm về thời đại ngày nay 
Cách mạng Tháng Mười Nga đã mở đầu thời đại mới – thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới vì : 
            Thứ nhất, sau  Cách mạng Tháng Mười Nga đã xuất hiện hình thái kinh tế - xã hội  cộng sản chủ nghĩa, là cái đối lập, phủ định hình thái kinh tế -xã hội tư bản chủ nghĩa.
Thứ hai, chiều hướng phát triển chủ yếu của sự vận động lịch sử  từ sau Cách mạng Tháng Mười là đấu tranh xóa bỏ trật tự tư bản chủ nghĩa, thiết lập và từng bước xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi thế giới.                                                              Thứ ba, từ sau Cách mạnh Tháng Mười các nước xã hội chủ nghĩa, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế trở thành một lực lượng nòng cốt , đi đầu trong cuộc đấu tranh vì hòa bình, dân chủ và tiến bộ trên phạm vi toàn thế giới.
Thứ tư, sau Cách mạng Tháng Mười, cách mạng giải phóng dân tộc nằm trong phạm trù cách mạng xã hội chủ nghĩa, nhiều nước sau khi giành được độc lập đã đi lên con đường xã hội chủ nghĩa.
b) Những giai đọan chính của thời đại ngày nay
Có thể chia thời đại từ sau Cách mạng Tháng Mười đến nay thành 4 giai đoạn.
+ Giai đoạn thứ nhất:  Từ sau Cách mạng Tháng Mười năm 1917 đến sau chiến tranh thế giới lần thứ hai (1945)
Thời gian này chủ nghĩa xã hội mới hình thành ở một số nước như : Liên Xô, Mông Cổ. Sức mạnh của chế độ mới đã giúp nhân dân Liên Xô đứng vững trong nội chiến, đập tan âm mưu can thiệp của chủ nghĩa đế quốc và đạt được những thành tựu to lớn về mọi mặt. Đây cũng là nguyên nhân cơ bản quyết định giúp nhân dân Liên Xô đánh bại chủ nghĩa phát xít trong chiến tranh thế giới lần thứ hai, cứu nhân loại khỏi thảm họa phát xít.
+ Giai đoạn thứ hai:  Từ sau năm 1945 đến đầu những năm 1970.
Là giai đoạn chủ nghĩa xã hội phát triển trở thành hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới, một loạt các nước xã hội chủ nghĩa ra đời. Với những thành tựu to lớn về các mặt, chủ nghĩa xã hội là chỗ dựa vững chắc cho phong trào hòa bình, dân chủ và tiến bộ xã hội, góp phần đẩy lùi nguy cơ chiến tranh do các thế lực đế quốc hiếu chiến gây ra.
Những thành tựu xây dựng chủ nghĩa xã hội ở các nước xã hội chủ nghĩa đã cổ vũ phong trào đấu tranh ở các nước tư bản chủ nghĩa, động viên nhân dân các nước thuộc địa đứng lên giải phóng dân tộc.
+ Giai đọan thứ ba: Từ cuối những năm 1970 đến cuối những năm 1980.
Do những sai lầm chủ quan tích tụ chậm được phát hiện và khắc phục triệt để, đã làm hạn chế sự phát triển của các nước xã hội chủ nghĩa. Đầu những năm 80 một số nước rơi vào tình trạng trì trệ, khủng hoảng. Trước tình hình đó, buộc các nước xã hội chủ nghĩa phải tiến hành cải tổ, cải cách, đổi mới. Do không chuẩn bị kỹ về lý luận, tư tưởng, tổ chức nên đã tiến hành một cách tùy tiện, vô nguyên tắc, thậm chí có sự phản bội của những người lãnh đạo cao nhất trong Đảng, Nhà nước, cộng với sự phản kích của các thế lực thù địch đã làm cho chủ nghĩa xã hội ở một số nước sụp đổ.
+  Giai đọan thứ tư:  Từ đầu những năm 1990 đến nay.
Chủ nghĩa xã hội thế giới tạm thời lâm vào thoái trào, nhiều Đảng Cộng sản bị tan rã. Nhiều nước đang định hướng xã hội chủ nghĩa nay mất chỗ dựa, quay về hệ thống tư bản chủ nghĩa. Ảnh hưởng, uy tín của chủ nghĩa xã hội bị giảm sút nghiêm trọng.
Chủ nghĩa đế quốc lợi dụng tình hình trên, tiếp tục tiến công vào chủ nghĩa Mác - Lênin , vào các nước xã hội chủ nghĩa còn lại, nhằm xác lập sự thống trị tuyệt đối của chủ nghĩa tư bản trên toàn thế giới.
Các nước xã hội chủ nghĩa còn lại tuy cải cách, đổi mới thắng lợi bước đầu, nhưng còn gặp nhiều khó khăn cản trở. Để vượt qua thử thách, các nước xã hội chủ nghĩa phải khắc phục những yếu kém, tranh thủ những điều kiện thuận lợi trong nước và thế giới, nhất là cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại để phát triển đất nước.
Các Đảng Cộng sản ở Liên Xô cũ, Đông Âu đang được tổ chức lại, cuộc đấu tranh cho lý tưởng xã hội chủ nghĩa vẫn đang diễn ra trên thế giới, các Đảng Cộng sản đang tự vươn lên để khẳng định mình.
II - TÍNH CHẤT VÀ NHỮNG MÂU THUẪN CƠ BẢN CỦA THỜI ĐẠI NGÀY NAY
1.Tính chất của thời đại ngày nay
Tính chất của thời đại ngày nay phản ánh tình trạng đan xen và đấu tranh gay go quyết liệt giữa hình thái kinh tế-xã hội cộng sản chủ nghĩa vừa mới ra đời, đang trưởng thành nhưng còn non kém nhiều mặt, với hình thái kinh tế-xã hội tư bản chủ nghĩa đã lạc hậu về lịch sử, nhưng còn những ưu thế nhất định về kinh tế , quân sự . . .  Cuộc đấu tranh này đang chi phối toàn bộ quá trình vận động của lịch sử nhân lọai.
+ Trong lĩnh vực kinh tế.
Các học giả tư sản dựa vào những lợi thế kinh tế để chứng minh chủ nghĩa tư bản không còn bóc lột, chủ nghĩa tư bản tồn tại vĩnh hằng… Chủ nghĩa đế quốc đang tìm mọi cách bao vây cấm vận, hạn chế sự phát triển của các nước xã hội chủ nghĩa; lợi dụng toàn cầu hóa để bóc lột các nước nghèo.
Các nước xã hội chủ nghĩa còn lại đang khắc phục những sai lầm yếu kém, phát huy mọi tiềm năng trong nhân dân, tranh thủ những thành tựu khoa học công nghệ …để chứng minh tính ưu việt của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa.
+  Trong lĩnh vực chính trị.
Các thế lực đế quốc đứng đầu là Mỹ dùng mọi cách tuyên truyền cho chế độ tự do tư sản, biện hộ cho chính sách bá quyền, can thiệp, xâm lược. Mặt khác chúng tìm cách mua chuộc,lôi kéo, cả những biện pháp răn đe, diễn biến hòa bình nhằm lật đổ các nước xã hội chủ nghĩa.
Các nước xã hội chủ nghĩa, các Đảng Cộng sản đã tỉnh táo,chủ động đấu tranh làm thất bại âm mưu phá hoại của kẻ thù để bảo vệ Đảng, Nhà nước và các thành quả cách mạng. Đồng thời phải làm rõ tính chất phản động, hiếu chiến của các thế lực đế quốc, tập hợp các lực lượng dân chủ, tiến bộ, yêu chuộng hòa bình trên thế giới làm thất bại mọi âm mưu của kẻ thù.
+  Trong lĩnh vực tư tưởng :
Chủ nghĩa tư bản dựa vào ưu thế kinh tế, khoa học, sức mạnh quân sự để phổ biến các giá trị phương Tây, tuyên truyền quan điểm đa nguyên đa đảng, “phi giai cấp”, “phi ý thức hệ”, “phi chính trị”…làm lẫn lộn phải trái, đúng sai nhằm chống lại chủ nghĩa xã hội và các lực lượng hòa bình tiến bộ trên thế giới. Chúng tìm mọi cách làm thoái hóa tư tưởng, đạo đức, lối sống, gây chia rẽ trong nội bộ lãnh đạo các nước xã hội chủ nghĩa.
Các Đảng Cộng sản phải đẩy mạnh cuộc đấu tranh ,phê phán những tư tưởng phản động.  Cổ vũ cho cuộc đấu tranh vì hòa bình, hữu nghị, đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau cùng phát triển.
2.  Những mâu thuẫn cơ bản của thời đại ngày nay.
Nội dung cơ bản của thời đại do những mâu thuẫn cơ bản của thời đại quy định. Hiện nay trên thế giới đang tồn tại bốn mâu thuẫn cơ bản sau:
+ Một là: mâu thuẫn giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản
Đây là mâu thuẫn cơ bản nhất, nổi bật, xuyên suốt, tác động đến các mâu thuẫn còn lại. Biểu hiện trong thực tế, chủ nghĩa đế quốc luôn tìm mọi cách xóa bỏ chủ nghĩa xã hội ngay từ khi mới ra đời. 
Ngày nay, các nước xã hội chủ nghĩa thiết lập quan hệ với các nước tư bản chủ nghĩa trên nhiều lĩnh vực, song đó là mối quan hệ vừa hợp tác vừa đấu tranh, tuy hình thức thể hiện có khác nhau nhưng cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản vẫn là cuộc đấu tranh rất quyết liệt.
+ Hai là: Mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản và giai cấp công nhân, giữa tư bản và lao động
Đây là mâu thuẫn giữa hai giai cấp cơ bản trong chủ nghĩa tư bản. Mâu thuẫn này phản ánh bản chất bóc lột lao động làm thuê của giai cấp tư sản. Hiện nay mâu thuẫn này biểu hiện rộng lớn hơn đó là mâu thuẫn giữa tư  bản và lao động. Không chỉ có giai cấp công nhân mà cả các giai cấp, tầng lớp lao động khác cũng bị áp bức bóc lột bởi chủ nghĩa tư  bản.
Hiện nay, do cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân, của các lực lượng tiến bộ thế giới, cùng năng suất lao động do cách mạng khoa học công nghệ tạo ra, làm cho chủ nghĩa tư bản có những điều chỉnh trong chính sách xã hội, song sự phân hóa giàu nghèo, tình trạng thất nghiệp của người lao động ngày càng tăng, tội phạm xã hội, suy thoái đạo đức… ngày càng gay gắt, điều đó chứng tỏ những mâu thuẫn trên không thể khắc phục được trong chủ nghĩa tư bản.
+ Ba là: mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa, phụ thuộc với chủ nghĩa đế quốc
Đến những năm 60 của thế kỹ XX, do ảnh hưởng của Cách mạng Tháng Mười và hệ thống xã hội chủ nghĩa, khoảng 100 nước thuộc địa,  phụ thuộc đã giành được độc lập dân tộc. Tuy nhiên, do trình độ kinh tế xã hội thấp kém, họ vẫn lệ thuộc vào các nước tư bản về kinh tế, tài chính, quân sự… nên vẫn phụ thuộc vào các nước tư bản về chính trị.
Bằng những thủ đoạn tinh vi, các nước tư bản phát triển tiếp tục bòn rút ở những nước này chất xám, nguyên, nhiên liệu, lao động… làm cho các nước này đã nghèo càng nghèo hơn. Nhiều nước hiện nay không còn có khả năng trả nợ. Hiện nay họ đang tiến hành cuộc đấu tranh rất khó khăn để chống lại sự nghèo nàn, lạc hậu xung đột dân tộc và chủ nghĩa dân tộc cực đoan.
Ngày nay, mâu thuẫn này chuyển biến thành mâu thuẫn giữa các nước giàu và các nước nghèo, giữa các nước chậm phát triển và các nước tư bản phát triển cao. Đây là mâu thuẫn nổi bật của thời đại ngày nay.
+  Bốn là: mâu thuẫn giữa các nước tư bản chủ nghĩa với nhau :
Các nước tư bản có sự thống nhất nhau về bản chất chế độ, lợi ích giai cấp, về tìm kiếm lợi nhuận tối đa. Song giữa các nước tư bản do  cạnh tranh nên luôn tồn tại những mâu thuẫn về lợi ích quốc gia, lợi ích của mỗi tập đoàn tư bản, lúc công khai lúc ngấm ngầm. Đó chính là nguyên nhân nổ ra hai cuộc chiến tranh thế giới. Hiện nay mâu thuẫn này được thể hiện thông qua mâu thuẫn giữa ba trung tâm tư bản : Mỹ – Nhật – Tây Âu. Ba trung tâm này vừa là đồng minh của nhau vừa là đối thủ cạnh tranh của nhau quyết liệt.
III - NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN VÀ XU THẾ VẬN ĐỘNG CỦA THỜI ĐẠI NGÀY NAY
1. Những đặc điểm cơ bản của thời đại ngày nay
a) Đấu tranh giai cấp và dân tộc đang diễn ra gay gắt trên phạm vi thế giới.
Cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân và giai cấp tư sản vẫn diễn ra quyết liệt. Các thế lực phản động thế giới đang tìm mọi cách xóa bỏ các nước xã hội chủ nghĩa còn lại và phá hoại phong trào công nhân quốc tế. Nguy cơ chiến tranh thế giới bị đẩy lùi, nhưng chiến tranh cục bộ, xung đột sắc tộc, tôn giáo, can thiệp, lật đổ, khủng bố… vẫn đang xảy ra ở nhiều nơi.
b) Cách mạng khoa học và công nghệ đã làm thay đổi to lớn trên thế giới trong nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, tạo ra xu hướng toàn cầu hóa; sự phụ thuộc giữa  các quốc gia ngày càng tăng; các nước đều có cơ hội phát triển, nhưng những nước nghèo đang gặp khó khăn thử thách.
c) Cộng đồng thế giới đang đứng trước những vấn đề toàn cầu, đòi hỏi các quốc gia phải cùng nhau giải quyết, không phân biệt chế độ xã hội, quốc gia, đó là tình trạng bùng nổ dân số, tình trạng ô nhiễm môi trường, cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên, đói nghèo, bệnh tật hiểm nghèo... Tất cả những điều đó đòi hỏi phải có sự hợp tác, liên kết giữa các quốc gia cùng nhau giải quyết.
d) Khu vực Châu Á Thái Bình Dương đang là khu vực phát triển năng động và tiếp tục phát triển với tốc độ cao, đồng thời cũng đang tiềm ẩn một số nhân tố có nguy cơ gây mất ổn định  vì khu vực này gồm nhiều nền văn hóa, nhiều hệ tư tưởng, nhiều tôn giáo, nhiều nguồn vốn nước ngoài đầu tư.
2 . Những xu thế chủ yếu của thế giới hiện nay
a) Toàn cầu hóa
Cách mạng khoa học và công nghệ là một động lực xuyên quốc gia, tạo cơ sở vật chất cho quá trình toàn cầu hóa nền kinh tế, thúc đẩy nhanh sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế và sự chuyển giao công nghệ.
Toàn cầu hóa là một xu thế khách quan, buộc các quốc gia chủ động xác định lộ trình hội nhập vào mọi mặt đời sống của thế giới. Toàn cầu hóa trong điều kiện bị chi phối của các tập đoàn kinh tế xuyên quốc gia tư bản, sẽ tác động hai mặt: mặt tích cực và mặt tiêu cực đến các nước.
b)  Hòa bình, ổn định cùng phát triển trong cộng đồng thế giới
Từ những thảm họa của hai cuộc chiến tranh thế giới trong nửa đấu thế kỷ XX, nhân loại đã nhận thức được những giá trị của hóa bình, ổn định; cơ sở để phát triển mọi mặt đời sống xã hội. Hòa bình, ổn định trong thời đại hiện nay trở thành nhu cầu bức xúc của sự phát triển các dân tộc trên thế giới.
Hiện nay, phần lớn các nước trên thế giới giành những ưu tiên cho phát triển kinh tế, trên cơ sở phát triển những tiềm lực kinh tế quốc gia, tạo điều kiện cho việc giữ gìn hòa bình trong nước và thế giới.
c) Xu hướng gia tăng hợp tác giữa các quốc gia                      Với sự phát triển của cách mạng khoa học và công nghệ tạo ra xu hướng toàn cầu hóa đòi hỏi phải có sự hợp tác giữa các khu vực, quốc tế dưới nhiều hình thức đa dạng khác nhau.
d) Các dân tộc ngày càng nâng cao ý thức độc lập, tự chủ, tự cường 
Thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa thư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi thế giới, tình trạng người bóc lột ngưới chưa bị xóa bỏ. Do đó, tình trạng dân tộc này thống trị, bóc lột dân tộc khác vẫn còn tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau. Trong quà trình hội nhập kinh tế thế giới, nhân dân các dân tộc ngày càng nhận thức rõ các quyền và những lợi ích cơ bản của dân tộc mình.                      Để đạt tới quyền độc lập, tự chủ, tự cường thực sự, nhân dân các nước Đang phát triển đấu tranh chống lại sự áp đặt, can thiệp của chủ nghĩa đế quốc đòi  quyên bình đẳng, đòi tôn trọng lợi ích quốc gia dân tộc.
đ)  Các nước xã hội chủ nghĩa, các Đảng Cộng sản và công nhân quốc tế kiên trì đấu tranh vì hòa bình, tiến bộ và phát triển    Hòa bình, ổn định, tiến bộ và phát triển là xu thế chung của nhân loại; vì vậy, càc nước xã hội chủ nghĩa,  các Đảng Cộng sản và công nhân quốc tế là lực lượng đi đầu, là nòng cốt trong cuộc đấu tranh chống lại các thế lực hiếu chiếu, kiên trì đấu tranh vì hòa bình, tiến bộ và phát triển của nhân loại.
e) Các nước có chế độ chính trị khác nhau vừa hợp tác vừa đấu tranh cùng tồn tại trong hòa bình.
Các nước xã hội chủ nghĩa do xuất phát điểm có nền kinh tế phát triển còn thấp, trình độ khoa học-công nghệ chưa cao, rất cần tranh thủ khoa học-công nghệ của các nước tư bản phát triển. Về phía các nước tư bản cũng thấy được tiềm năng to lớn ở các nước xã hội chủ nghĩa về đầu tư, quan hệ buôn bán để tăng lợi nhuận. Do đó sự hợp tác giữa các nước tư bản và xã hội chủ nghĩa là tất yếu.
Tuy nhiên do có sự đối lập về hệ tư tưởng, do mâu thuẫn về lợi ích các mặt, nên quan hệ giữa các nước tư bản và xã hội chủ nghĩa là quan hệ vừa hợp tác vừa đấu tranh, vừa là thời cơ vừa là thách thức. Trong mối quan hệ này, đòi hỏi các nước xã hội chủ nghĩa phải luôn đề cao cảnh giác, chống nguy cơ diễn biến hòa. Mặt khác phải luôn tự đổi mới, mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế,  tranh thủ thời cơ để đưa cách mạng tiến lên.


CHƯƠNG VI
XÃ HỘI  XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
I.  HÌNH THÁI KINH TẾ – XÃ HỘI  CỘNG SẢN CHỦ NGHĨA
1.Khái niệm hình thái kinh tế - xã hội  cộng sản chủ nghĩa
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, lịch sử xã hội loài người là lịch sử kế tiếp nhau của các hình thái kinh tế - xã hội, phát triển từ trình độ thấp đến trình độ cao. Nó diễn ra như “một quá trình lịch sử - tự nhiên”. Thực tế lịch sử nhân loại đã có năm hình thái kinh tế - xã hội kế tiếp nhau.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin, hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa có đặc điểm cơ bản sau:  Là chế độ xã hội phát triển cao nhất, có quan hệ sản xuất dựa trên sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất, thích ứng với lực lượng sản xuất ngày càng phát triển, tạo thành cơ sở hạ tầng có trình độ cao hơn cơ sở hạ tầng của chủ nghĩa tư bản; có  kiến trúc thượng tầng tương ứng thực sự là của  nhân dân với trình độ xã hội hoá ngày càng cao.
2 . Điều kiện cơ bản của sự ra đời hình thái kinh tế – xã hội cộng sản chủ nghĩa. 
a . Điều kiện cơ bản của sự ra đời hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa từ các nước tư bản  phát triển cao
Thứ nhất, trong nuớc tư bản, lực lượng sản xuất phát triển rất mạnh, trình độ xã hội hóa ngày càng cao, nhưng quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa về cơ bản không thay đổi, vẫn là chế độ chiếm hữu tư nhân, tư bản về tư liệu sản xuất. Do đó  làm nẩy sinh mâu thuẫn  giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất tư bản. Trong từng doanh nghiệp, tính tổ chức và kế hoạch rất cao, trong toàn xã hội, do quy luật cạnh tranh, nền kinh tế rơi vào tình trạng “ vô chính phủ”, khủng hoảng kinh tế. Giai cấp tư sản, xã hội tư bản không thể khắc phục triệt để được tình trạng này. Khi những mâu thuẫn này ngày càng gay, nó gắt đòi hỏi phải được giải quyết nhằm giải phóng và thúc đẩy sản xuất phát triển.
Thứ hai, chủ nghĩa tư bản làm xuất hiện hai giai cấp cơ bản đối lập nhau về lợi ích. Giai cấp công nhân đại biểu cho lực lượng sản xuất hiện đại, mang tính xã hội hóa cao, Giai cấp tư sản đại biểu quan hệ sản xuất và phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đã lỗi thời về phương diện lịch sử
Giai cấp công nhân trực tiếp sáng tạo ra tư liệu sản xuất và những thành quả của sản xuất, nhưng không có tư liệu sản xuất, phải làm thuê, bị giai cấp tư sản bóc lột giá trị thặng dư. Còn giai cấp tư sản không trực tiếp sáng tạo ra tư liệu sản xuất và những thành quả của sản xuất, nhưng lại là chủ thể chiếm hữu phần lớn tư liệu sản xuất và các thành quả của sản xuất. Mâu thuẫn  giữa hai giai cấp ngày càng gay gắt dẫn đến cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân chống lại giai cấp tư sản. Cuộc đấu tranh phát triển từ trình độ thấp, quy mô nhỏ, tự phát, tiến đến trình độ cao, quy mô lớn và ngày càng có tính tự giác hơn. Sự phát triển của phong trào công nhân sẽ hình thành Đảng chính trị của mình (Đảng cộng sản). Với hệ thống tư  tưởng, tổ chức tiên phong, Đảng cộng sản ở mỗi nước sẽ lãnh đạo giai cấp công nhân, nhân dân lao động lật  đổ ách thống trị của giai cấp tư sản, xây dựng một hình thái kinh tế - xã hội mới.
       Thứ ba, sự tồn tại của xã hội tư bản trong nhiều thế kỷ qua một mặt  đã tạo ra những thành tựu to lớn cho loài người. mặt khác, do bản chất tư hữu,  nên chủ nghĩa tư bản đã gây ra nhiều tai họa cho nhân loại như: áp bức, bóc lột, phân hoá giàu nghèo, phân biệt chủng tộc, chiến tranh, suy đồi đạo đức, lối sống, tàn phá thiên nhiên, ô nhiễm môi trường….Vì vậy, giai cấp tư sản không thể là giai cấp tiến bộ, xã hội tư bản không phải là “tột  đỉnh”, và “vĩnh hằng”, giai cấp tư sản dù có  “điều chỉnh”, “thích nghi” với hình thức, mức độ nhất định, thì cũng không thể làm mất đi những mâu thuẫn và tai hoạ.
 Khi những mâu thuẫn ngày càng gay gắt, khi tai họa do chủ nghĩa tư bản tạo ra ngày càng nhiều sẽ làm xuất hiện tình thế cách mạng và thời cơ cách mạng. Đảng cộng sản ở mỗi nước sẽ lãnh đạo giai cấp công nhân, nhân dân lao động làm cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa. Khi cách mạng thắng lợi, giai cấp công nhân và nhân dân lao động sẽ xây dựng một hình thái kinh tế - xã hội mới. Đó là hình thái  kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa.
b. Điều kiện cơ bản của sự ra đời hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa từ những nước tư bản trung bình và những nước chưa qua chủ nghĩa tư bản. 
Lịch sử nhân loại chứng minh rằng, đã có một số nước “ bỏ qua” một vài hình thái kinh tế – xã hội tiến lên hình thái kinh tế – xã hội cao hơn. Chủ nghĩa Mác-Lênin cho rằng, sự thật đó cũng nằm trong quy luật của lịch sử trong tời đại hiện nay nó đang tiếp tục diễn ra. Sẽ có những nước tư bản chủ nghĩa ở trình độ phát triển trung bình và những nước chưa qua chủ nghĩa tư bản cũng có thể nổ ra cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa thành công và bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Theo Lênin, đó là loại “ đặc biệt” và loại “ đặc biệt của đặc biệt”.                      Hình thức “đặc biệt” đã được thực tiễn lịch sử chứng minh ở Nga và tất cả cả các nước xã hội chủ nghĩa Đông Au. Hình thức “đặc biệt của đặc biệt” cũng được chứng minh ở  Việt Nam, Trung Quốc, Cu Ba, Lào, Bắc Triều Tiên, v.v.. Tuy nhiên để hình thái kinh tế – xã hội cộng sản chủ nghĩa ra đời  ở loại hình nước “đặc biệt”,  “đặc biệt của đặc biệt” phải có những điều kiện cơ bản sau :
Một là, Chủ nghĩa tư bản chuyển sang giai đoạn chủ nghĩa đế quốc. Các nước tư bản đi xâm lược các nước còn lại đã làm xuất hiện mâu thuẫn mới của thời đại đó là mâu thuẫn giữa các nước đế quốc với các nước thuộc địa, phụ thuộc. Đồng thời là cho các mâu thuẫn khác của thời đại trở nên gay gắt hơn. Cuộc đấu tranh của nhân dân các nước thuộc địa, phụ thuộc chống chủ nghĩa đế quốc làm xuất hiện khâu yếu nhất trong  hệ thống các nước đế quốc.
Ở các nước thuộc địa, phụ thuộc, công nghiệp chưa phát triển, giai cấp công nhân và giai cấp tư sản hình thành chưa đáng kể. Do đó mâu thuẫn chủ yếu ở đây là: một bên là bọn tư bản xâm lược, cấu kết với bè lũ tay sai phong kiến,  tư sản phản động với một bên là cả dân tộc bao gồm: nông dân, công nhân, trí thức, tiểu thương, tiểu chủ, dân nghèo, phú nông, địa chủ yêu nước, tư sản dân tộc … bị chèn ép, áp bức, bóc lột, mất độc lập tự do. Cuộc đấu tranh này có  xu hướng ngày càng tăng.
Hai là, do tác động toàn cầu của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, do tác động của chủ nghĩa  Mác-Lênin đã làm thức tỉnh ý thức dân tộc, làm dấy lên phong trào yêu nước, phong trào công nhân đấu tranh giành lại độc lập dân tộc. Từ cuộc đấu tranh đã làm xuất hiện các Đảng chính trị lấy chủ nghĩa Mác-Lênin làm nền tảng tư tưởng để lãnh đạo nhân dân giành  lại độc lập, tự do và đi theo con đường xã hội chủ nghĩa
Cần phê phán xu hướng “hữu khuynh”, cứ để cho các nước trải qua chủ nghĩa tư bản đầy đủ rồi “ tự nó” sẽ chuyển thành chủ nghĩa cộng sản, không cần đấu tranh giai cấp, không cần cách mạng xã hội, hoặc xu hướng “tả khuynh”, muốn tiến hành ngay cách mạng xã hội chủ nghĩa bất chấp quy luật và điều kiện khách quan.
3. Phân kỳ hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa
 a) Theo C.Mác - Ph.Ăngghen, hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa ra đời, phát triển qua các giai đoạn khác nhau từ  trình độ thấp lên trình độ cao, đó là :
+  “Giai đoạn thấp của xã hội cộng sản” .
+  “Giai đoạn cao hơn của xã hội cộng sản” .
    “Giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội cộng sản chủ nghĩa là một thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội nọ sang xã hội kia” …đó là “ thời kỳ quá độ chính trị” …là “chuyên chính cách mạng của giai cấp vô sản”. Mác gọi thời kỳ quá độ bằng hình tượng “ những cơn đau đẻ kéo dài” để chủ nghĩa xã hội lọt lòng ra từ xã hội cu.
b)  V.I.Lê nin cũng nêu lại cách diễn đạt hình tượng của C. Mác và Ph.Ăngghen, nhưng chia thành 3 giai đoạn:
I. Những cơn đau đẻ kéo dài (tức thời kỳ quá độ).
II. Giai đoạn đầu của xã hội cộng sản chủ nghĩa
( tức chủ nghĩa xã hội)
III. Giai đoạn cao của xã hội cộng sản chủ nghĩa1
(tức chủ nghĩa cộng sản )
Từ thực tế lịch sử, Lênin cho rằng những nước nông nghiệp lạc hậu có thể “bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa” quá độ lên chủ nghĩa xã hội,  đó là kiểu quá độ “đặc biệt của đặc biệt”, vì vậy, thời kỳ quá độ sẽ khó khăn, phức tạp, lâu dài. Để thực hiện thắng lợi những mục tiêu của thời kỳ quá độ,  những nước  này cần có những điều kiện sau :
Phải có Đảng Cộng sản lãnh đạo nhân dân giành chính quyền; Đảng Cộng sản có đường lối xây dựng và bảo vệ đất nước theo mục tiêu xã hội chủ nghĩa; phải tận dụng được những thành tựu của các nước xã hội chủ nghĩa, của chủ nghĩa tư bản và của cả nhân loại; phải biết sử dụng “những bước quá độ nhỏ” những hình thức trung gian quá độ”, đan xen giữa “các thành phần”, “các mảnh”…của chủ nghĩa tư bản lẫn chủ nghĩa xã hội v.v.. Do đo, ở các nước “ quá độ bỏ qua” hay “quá độ rút ngắn” không được chủ quan, nóng vội “đốt cháy giai đoạn”... mà phải vận dụng đúng đắn những quy luật khách quan để giành thắnh lợi từng bước trên tất cả các lĩnh vực của xã hội .
Tóm lại : Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin thì hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa bắt đầu từ thời kỳ quá độ cho đến khi xây dựng xong giai đoạn cao của chủ nghĩa cộng sản. Dù quá độ trực tiếp hay quá độ gián tiếp,  cũng đều nằm trong quy luật và xu hướng tất yếu của lịch sử nhân loại trong thời đại ngày nay.
 II. NHỮNG ĐẶC TRƯNG CƠ BẢN CỦA XÃ HỘI  XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
            Trên cơ sở lý luận khoa học của chủ nghĩa Mác – Lênin , dựa trên thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội và tổng kết lý luận, chúng ta có thể nhận thức những đặc trưng cơ bản của xã hội xã hội chủ nghĩa:
1. Cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội là nền sản xuất công nghiệp hiện đại  
Xét về lý luận, chủ nghĩa xã hội là sự kế tiếp chủ nghĩa tư bản, nó kế thừa nền sản xuất vật chất và những giá trị tiến bộ mà chủ nghĩa tư bản đã tạo ra. Đồng thời xã hội xã hội chủ nghĩa cò nhiệm vụ giải quyết những mâu thuẫn giữa yêu cầu xã hội hóa ngày càng tăng và ngày càng hiện đại của lực lượng sản xuất vời chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất. Do đó, nền sản xuất vật chất của xã hội xã hội chủ nghĩa, khi nó hoàn thiện sẽ phát triển cao hơn so với chủ nghĩa tư bản.
Trên thực tế, quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội ở những loại hình nước có điểm xuất phát khác nhau, quá trình thực hiện đặc trưng này cũng khác nhau.
Đối với những nước tư bản phát triển, đã có lực lượng sản xuất vật chất cao, quá độ lên Chủ nghĩa xã hội, sau khi giai cấp công nhân làm cuộc cách mạng chính trị thành công, nhiệm vụ chủ yếu của họ là tiếp tục xây dựng và hoàn thiện  lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất, làm cho nền sản xuất công nghiệp của chủ nghĩa xã hội ngày càng hiện đại 
Đối với những nước “ bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa” quá độ lên chủ nghĩa xã hội, sau khi giai cấp công nhân giành được chính quyền, nhiệm vụ chủ yếu của họ là lãnh đạo nhân dân tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, từng bước xây dựng mới cả lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất. Do dựa trên nền tảng là chế độ công hữu, người lao động trở thành chủ thể, do đó nền sản xuất công nghiệp ở những nước này sẽ có tốc độ phát triển nhanh và ngày càng hiện đại.

2 . Xoá bỏ chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa, thiết lập chế độ công hữu về những tư liệu sản xuất chủ yếu
                        Luận chứng về sự khác nhau căn bản giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản, C. Mác và Ph. Angghen chỉ rõ: “ Sự khác biệt có tính chất quyết định của nó so với chế độ hiện nay, dĩ nhiên là ở việc tổ chức sản xuất trên cơ sở sở hữu chung trước hết của từng dân tộc đối với tất cả tư liệu sản xuất” (1). Xét về mặt lý luận, chủ nghĩa xã hội không xóa bỏ chế độ tư hữu nói chung mà chủ yếu xóa bỏ chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa vế tư liệu sản xuất.
Đối với những nước tư bản phát triển, quá độ lên chủ nghĩa xã hội, giai cấp công nhân xoá bỏ chế độ tư hữu tư bản (chiếm số đông) là có ngay chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu, giải phóng và thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển
Đối với những nước tư bản trung bình hay nước “bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa”, quá độ lên chủ nghĩa xã hội, giai cấp công nhân chỉ  xoá bỏ chế độ tư hữu tư bản, để thiết lập chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu, còn tư hữu nhỏ (chiếm số đông) giai cấp công nhân vận động họ vào các hình thức hợp tác thích hợp, nhằm phát huy vai trò của cơ sở kinh tế quá độ còn nhiều thành phần kinh tế vận hành theo cơ chế sản xuất hàng hóa, quan hệ thị trường.
Do đặc điểm của thời kỳ quá độ nên xã hội còn tồn tại đan xen nhiều giai cấp, tầng lớp; nhiều thành phần kinh tế, nền kinh tế hàng hoá vận hành theo cơ chế  thị trường, do đó vẫn còn
-------------------------------
1. C. Mác và Ph> Angghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Hà Nội, 1997, t. 37, tr.617 – 618.
một số cá nhân bị bóc lột, nhưng không còn chế độ người bóc lột người. Nếu nóng vội xoá bỏ ngay các hình thức tư hữu nhỏ và quan hệ bóc lột là chủ quan, duy ý chí.
3. Xã hội xã hội chủ nghĩa  tạo ra cách tổ chức lao động mới và hình thức kỷ luật lao động mới
Quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội là quá trình hoạt động tự giác của nhân dân, vì lợi ích của nhân dân, nên chủ nghĩa xã hội có cách tổ chức lao động mới và hình thức kỷ luật lao động mới.
Cách tổ chức lao động mới là do bản thân người lao động tự tổ chức ra, dưới sự lãnh đạo, hướng dẫn của Đảng Cộng sản và Nhà nước xã hội chủ nghĩa.
 Hình thức kỷ luật lao động mới vừa chặt chẽ theo quy định chung của luật pháp và pháp chế xã hội chủ nghĩa, vừa có tính tự giác cao của người lao động  làm chủ, vì  vậy gọi là “kỷ luật tự giác.
Để có được cách tổ chức lao động mới và kỷ luật lao động mới phải trải qua một quá trình từng bước hoàn thiện Chủ nghĩa xã hội .     
4. Xã hội xã hội chủ nghĩa thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động – đây là nguyên tắc phân phối cơ bản nhất.               
Trong quá trình lao động cụ thể, sau khi đã trừ đi một số khoản đóng góp chung cho xã hội, mỗi người lao động sẽ nhận được từ xã hội một lượng giá trị tương đương với số lượng, chất lượng và hiệu quả kinh tế mà họ đã tạo ra cho xã hội .
Nguyên tắc phân phối này là phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong chủ nghĩa xã hội. Đó là một trong những cơ sở của sự công bằng xã hội trong giai đoạn này.
 5. Nhà nước xã hội chủ nghĩa mang bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân rộng rãi và tính dân tộc sâu sắc; thực hiện quyền lực và lợi ích của nhân dân.
Theo quan điểm của  chủ nghĩa Mác-Lênin nhà nước xã hội chủ nghĩa do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo nhân dân tổ chức ra, do đó nhà nước này mang bản chất giai cấp công nhân.
Mặt khác, giai cấp công nhân có mục đích và lợi ích cơ bản phù hợp với mục đích và lợi ích nhân dân lao động và của cả dân tộc, nên nhà nước xã hội chủ nghĩa còn mang  tính nhân dân rộng rãi và tính dân tộc sâu sắc.
Thông qua hoạt động của nhà nước, Đảng lãnh đạo toàn xã hội, nhằm thực hiện quyền lực và lợi ích của nhân dân lao động trên  mọi mặt của đời sống xã hội. Với bản chất như vậy,  nhân dân sẽ thực hiện quyền lực của mình, nhân dân sẽ tham gia ngày càng nhiều vào công việc quản lý nhà nước, quản lý xã hội. Khi đó nhà nước xã hội chủ nghĩa sẽ dần dần tiêu vong.
6. Trong chủ nghĩa xã hội con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, có điều kiện phát triển toàn diện ; xã hội công bằng, bình đẳng và tiến bộ .
Suy đến cùng, việc giành chính quyền, giải phóng con người về chính trị chính là để giải phóng con người khỏi áp bức, bóc lột, để xây dựng một xã hội công bằng, bình đẳng, tiến bộ, là tạo những điều kiện để con người phát triển toàn diện
Đối với những nước tư bản trung bình hoặc nước “ bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa”, quá độ lên chủ nghĩa xã hội, khi giai cấp công nhân giành được chính quyền, trình độ kinh tế và mức sống của nhân dân còn thấp, nhưng con người đã được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, từng bước xây dựng xã hội công bằng, bình đẳng, tiến bộ. Do đó, nền  kinh tế - xã hội sẽ phát triển nhanh, tạo ra những điều kiện cơ bản, thuận lợi để con người phát triển toàn diện.
Nói bình đẳng trong chủ nghĩa xã hội là nói đến bình đẳng giữa các công dân, giữa các chủ thể sản xuất, kinh doanh, giữa nam, nữ, giữa các dân tộc.  Đây chính là tiền đề chính trị, kinh tế, xã hội làm cho chủ nghĩa xã hội khác về chất so với các xã hội cũ.
III. QUAN NIỆM VỀ XÃ HỘI XÃ HỘI XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VÀ THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI     Ở VIỆT  NAM
1. Quan niệm về xã hội  xã hội chủ nghĩa ở  Viêt Nam
      Tổng kết thực tiễn 20 năm đổi mới, Đảng ta đã hình thành quan niệm tổng quát về xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam như sau:
            Xã hội xã hội chủ nghĩa mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh;
            - Do nhân dân làm chủ;
            - Có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất;
            - Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc;
            - Con người được giải phóng khỏi áp bức, bất công, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, phát triển toán diện;
            - Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tương trợ, dúp đỡ nhau cùng tiến bộ;
            - Có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản;
            - Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới.
2. Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
         a. Đặc điểm và thực chất của thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam
       Từ sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp, nước ta tạm thời chia làm hai miền,  miền Nam tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, miền Bắc bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đảng ta đã xác định đặc điểm của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc là: xét về kinh tế là từ nền sản xuất nhỏ, nông nghiệp lạc hậu, quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Đồng thời miền Bắc còn là hậu phương lớn của miền Nam.
Vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác -Lênin về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở “những nước tiểu nông” Đảng và nhân ta đã thu  được những thắng lợi bước đầu trong xây dựng và bảo vệ Chủ nghĩa xã hội. Nhưng từ 1975 đến 1985, chúng ta đã phạm  một số sai lầm : chủ quan, nóng vội, giản đơn, nhất là về quản lý kinh tế; chú trọng kinh tế quốc doanh và tập thể một cách hình thức; duy trì quá lâu cơ chế tập trung, bao cấp; nhận thức chưa đúng quan điểm của Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế hàng hóa, về nhiều thành phần kinh tế tồn tại đan xen trong thời kỳ quá độ… Do đó, đã biến chế độ sở hữu toàn dân và tập thể trở nên trừu tượng, hình thức; nhiều tư liệu sản xuất của xã hội (nhất là đất đai) trở nên không có chủ sở hữu cụ thể. Vì vậy đã làm giảm các động lực và không phát huy được tiềm năng của nhân dân, của đất nước, không tranh thủ được hợp tác quốc tế. Chính những nguyên nhân đó đã làm cho kinh tế - xã hội nước ta lâm vào  trì trệ, khủng hoảng.
Từ sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (1986 ) Đảng ta tiến hành công cuộc đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Qua thực tiễn, Đảng ta có nhận thức ngày càng rõ hơn về “ thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội” về việc “ bỏ qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa”.
Theo quan điểm của Đảng ta ở Đại hội IX “ Bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học và công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại(1).
b Nội dung của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta
 Nội dung chủ yếu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội  là tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân trên cơ sơ liên minh công, nông, trí thức do Đảng công sản lãnh đạo, kết hợp hài  hoà các lợi ích và phát huy mọi tiềm năng và mọi nguồn  lực của xã hội
         Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là thời kỳ tồn tại đan xen và đấu tranh giữa cái cũ và cái mới, giữa con đường tư bản chủ nghĩa với con đường xã hội chủ nghĩa, là cuộc đấu tranh chống lại âm mưu diễn biến hòa bình  của chủ nghĩa đế quốc và thế lực phản động.
Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội tuy còn nhiều hình thức sở hữu, thành phần kinh tế, giai cấp, tầng lớp, nhưng cơ cấu, tính chất và vị trí đã có những biến đổi căn bản cùng với sự biến dổi của kinh tế - xã hội. Dưới  sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, các giai cấp, tầng lớp vừa quan hệ hợp tác, vừa đấu tranh nhằm  xây dựng, bảo vệ thành công chủ nghĩa xã hội.
     Xây dựng chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, là sự nghiệp khó khăn, phức tạp, lâu dài, nên thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta phải trải qua nhiều chặng đừơng, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội, có tính chất quá độ 
      c. Những phương hướng - nhiệm vụ  cơ bản của thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Một là, xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam  là nhà nước của dân, do dân, vì dân; lấy liên minh giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và đội ngũ  trí thức làm nền tảng và là nòng cốt cho khối đại đoàn kết toàn dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Thực hiện ngày càng đầy đủ quyền dân chủ, quyền làm chủ và quyền lực của nhân dân, giữ nghiêm kỷ cương xã hội, chuyên chính với mọi loại tội phạm, mọi kẻ thù của nhân dân và tổ quốc.
Hai là, phát triển lực lượng sản xuất, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước là nhiệm vụ trung tâm, từng bước xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, nâng cao năng suất lao động và cải thiện đời sống nhân dân.
Ba là, thiết lập từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa đáp ứng yêu cầu và tính chất của sự phát triển lực lượng sản xuất; đa dạng về hình thức sở hữu và hình thức sử dụng các tư liệu sản xuất, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trong đó kinh tế nhà nước là chủ đạo, cùng kinh tế tập thể làm nền tảng cho cả nền kinh tế quốc dân; từng bước phát triển kinh tế tri thức. Thực hiện nhiều hình thức phân phối, lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu.
Bốn là, tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng - văn hóa làm cho chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần của xã hội. Kế thừa và phát huy tinh hoa văn hóa của dân tộc và của nhân loại. Xây dựng con người xã hội chủ nghĩa, đấu tranh loại trừ các biểu hiện  phản văn hoá, phản văn minh, phi đạo lý, phi đạo đức .   
Năm là, thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc, thực hiện chính sách đối ngoại hòa bình, hợp tác, hữu nghị, bình đẳng, độc lập và cùng có lợi  với tất cả các nước .
Sáu là, thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, thực hiên quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân, gắn kinh tế với quốc phòng, giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội.
Bảy là, thường xuyên xây dựng, chỉnh đốn Đảng theo phương châm : phát triển kinh tế là trọng tâm, xây dựng, chỉnh đốn Đảng là then chốt, đảm bảo cho Đảng luôn trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, và tổ chức, để Đảng làm tròn trách nhiệm lãnh đạo cách mạng Việt Nam đến thắng lợi.






CHƯƠNG VII
NỀN DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VÀ NHÀ NƯỚC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
I - NỀN DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
1. Quan niệm về dân chủ.
a) Khái lược lịch sử của vấn đề dân chủ.
   Từ thời nguyên thủy, cách đây hàng ngàn năm, con người đã biết hợp lực nhau để sản xuất, để chống thiên tai, thú dữ, đã tổ chức ra những hoạt động chung mang tính cộng đồng và cử ra những người đứng đầu, đồng thời sẵn sàng phế truất họ nếu họ không thực thi được những quy định mà cộng đồng yêu cầu. Thời Hy Lạp cổ đại, khi có ngôn ngữ, chữ viết thì việc “cử ra và phế bỏ người đứng đầu” là do quyền và sức lực của nhân dân.
Khi chế độ chiếm hữu nô lệ ra đời (ở Aten, Hy Lạp cổ đại từ thế kỷ thứ VIII đến thế kỷ thứ VI trước công nguyên) giai cấp chủ nô lập ra nhà nước lấy tên là nhà nước dân chủ. Khi đó khái niệm “dân chủ” chính thức được sử dụng (từ “dân chủ” do hai từ démos và kratos - tức nhân dân và quyền lực - ghép lại). Nhưng  “dân” lúc này theo luật pháp của giới chủ nô quy định gồm: giai cấp chủ nô, tăng lữ, thương gia, một số trí thức và người tự do, còn đại đa số nhân dân trở thành nô lệ thì không được coi là dân. Về thực chất, đây là nhà nước dân chủ của giai cấp chủ nô, lạm dụng khái niệm dân chủ để chiếm mất quyền lực thực sự của nhân dân lao động.
Trong chế độ tư hữu nói chung (phong kiến, tư bản) do các giai cấp tư hữu thống trị xã hội, nhà nước vẫn là nhà nước áp bức bóc lột nhân dân. Ngay cả trong chế độ dân chủ tư sản đã đạt được nhiều thành tựu to lớn về dân chủ, nhưng nhà nước đó về thực chất vẫn không phải là nhà nước thực hiện quyền lực thực sự của nhân dân, mà chỉ là nhà nước của giai cấp tư sản thống trị nhân dân.
Cách mạng Tháng Mười Nga 1917 thắng lợi, nhân dân lao động giành được chính quyền và quyền làm chủ về tư liệu sản xuất, do đó cũng giành được quyền dân chủ thực sự cho nhân dân.
b)  Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về vấn đề dân chủ.
Một là: Dân chủ là nhu cầu khách quan của người dân lao động, dân chủ là quyền lực thuộc về nhân dân.
Hai là: Khi xã hội có giai cấp và nhà nước – tức là chế độ dân chủ thể hiện chủ yếu qua nhà nước thì khi đó không thể có “dân chủ chung chung, phi giai cấp, siêu giai cấp...” mà mỗi chế độ dân chủ gắn với nhà nước đều mang bản chất giai cấp của giai cấp cầm quyền. Do đó từ khi có chế độ dân chủ thì dân chủ luôn với tư cách là một phạm trù lịch sử, phạm trù chính trị.
Ba là : Từ khi có nhà nước dân chủ, thì dân chủ còn có ý nghĩa là một hình thức nhà nước, trong đó có chế độ bầu cử, bãi miễn, có quản lý xã hội theo luật pháp và thừa nhận nhà nước đó “quyền lực thuộc về nhân dân”. ( Còn nhân dân là ai lại do giai cấp thống trị xã hội quy định ), gắn liền với một hệ thống chuyên chính của giai cấp thống trị xã hội.
Bốn là: Với một chế độ dân chủ và nhà nước tương ứng, đều do một giai cấp thống trị cầm quyền chi phối tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, từ chế độ chính trị, kinh tế, văn hóa, dân tộc… ở mỗi quốc gia cụ thể .
2. Bản chất của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.
   Từ những thực tế diễn ra trong sự phát triển dân chủ của nhân loại, chủ nghĩa Mác - Lênin đã có dự báo về nền dân chủ xã hội chủ nghĩa tất yếu gắn liền với sự ra đời và phát triển của chế độ xã hội chủ nghĩa. Bản chất của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa được thể hiện qua những nội dung sau đây:
a) Bản chất chính trị.
Đó là sự lãnh đạo về chính trị của giai cấp công nhân đối với toàn xã hội để thực hiện quyền lực và lợi ích của số đông nhân dân. Do được đông đảo nhân dân tham gia vào công việc quản lý nhà nước, quản lý xã hội, cho nên nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, nhà nước xã hội chủ nghĩa về thực chất là nhà nước của dân, do dân, vì dân. Nó vừa mang bản chất của giai cấp công nhân, vừa có tính nhân dân rộng rãi và tính dân tộc sâu sắc.
b) Bản chất kinh tế.
Biểu hiện ở sự kế thừa, tiếp thu phát triển những thành tựu đạt được của nhân loại trong lịch sử, đồng thời loại bỏ những nhân tố lạc hậu tiêu cực, kìm hãm sự phát triển của các chế độ kinh tế trước đó cũng như sự áp bức bóc lột đối với nhân dân.
Về mặt kinh tế, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa dựa trên nền tảng chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu, đáp ứng sự phát triển ngày càng cao yêu cầu của lực lượng sản xuất, dựa trên cơ sở khoa học công nghệ hiện đại nhằm thỏa mãn nhu cầu vật chất và tinh thần của nhân dân lao động.
c) Bản chất tư tưởng - văn hóa.
Một mặt, dân chủ xã hội chủ nghĩa lấy hệ tư tưởng Mác - Lênin làm nền tảng chủ đạo đối với mọi hình thái ý thức – xã hội khác trong xã hội mới (như văn học, nghệ thuật, giáo dục, đạo đức, lối sống, văn hóa, xã hội, tôn giáo…)
Mặt khác, dân chủ xã hội chủ nghĩa còn kế thừa, phát huy những giá trị tinh thần văn hóa dân tộc; tiếp thu giá trị văn hóa, văn minh nhân loại trên thế giới.
3. Hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa.
Nền dân chủ bao giờ cũng được thể hiện thông qua hoạt động của hệ thống chính trị của một chế độ nhất định. Do vậy nền dân chủ xã hội chủ nghĩa cũng được thể hiện thông qua hoạt động của hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa.
Chủ nghĩa Mác – Lênin đã có những luận điểm cơ bản về “ chuyên chính vô sản” về “ hệ thống chuyên chính vô sản” với tư cách là một hệ thống tổ chức bao gồm: Đảng cộng sản, nhà nước , công đoàn và một số tổ chức khác để thực hiện mối liên hệ giữa Đảng với nhân dân .
Vận dụng những luận điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin về chuyên chính vô sản và hệ thống chuyên chính vô sản vào tình hình Việt Nam . Đảng ta đã sử dụng khái niệm hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa với tư cách là hệ thống thực thi quyền lực của nhân dân .
Hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa: là hệ thống các tổ chức chính trị căn bản có quy mô quốc gia, có ý nghĩa chiến lược đối với sự tồn tại, ổn định và phát triển của một nước xã hội chủ nghĩa, được hình thành và hoạt động trong khuôn khổ pháp luật hiện hành, phù hợp với vai trò, nhiệm vụ, chức năng và mối quan hệ giữa các tổ chức đó .
Về cấu trúc cơ bản, hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa bao gồm : Đảng Cộng sản, Nhà nước xã hội chủ nghĩa và các đoàn thể nhân dân . Trong đó, Đảng Cộng sản đóng vai trò lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ .
Để quyền lực thuộc về nhân dân thì hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa phải nhất nguyên về chính trị, tức là hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa phải đặt dưới sự lãnh đạo của một đảng duy nhất đó là Đảng cộng sản.
II - NHÀ NƯỚC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
1. Quan niệm về nhà nước xã hội chủ nghĩa
Nhà nước xã hội chủ nghĩa là một trong những tổ chức chính trị cơ bản nhất, là”trụ cột” của hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa. Đây là công cụ quản lý xã hội do Đảng cộng sản lãnh đạo nhân dân tổ chức ra. Thông qua nhà nước xã hội chủ nghĩa, Đảng lãnh đạo xã hội về mọi mặt để thực hiện quyền lực và lợi ích của nhân dân lao động . Theo  quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin, về thực chất nhà nước xã hội chủ nghĩa đó chính là nhà nước chuyên chính vô sản.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa là nhà nước dân chủ, nó kế thừa và phát huy các thành quả chung của quá trình dân chủ mà loài người đã đạt được. Tuy nhiên so với nhà nước của các giai cấp bóc lột trước kia,nhà nước xã hội chủ nghĩa khác về bản chất, mục tiêu, quyền lực, … suy cho cùng nhằm đem lại lợi ích cho tuyệt đại đa số  nhân dân lao động.
2. Bản chất, chức năng, nhiệm vụ của nhà nước xã hội chủ nghĩa
a)  Bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa :
Bất kỳ nhà nước nào trong xã hội có giai cấp, bao giờ cũng mang bản chất của giai cấp cầm quyền nhất định. Do vậy bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa vừa mang bản chất của giai cấp công nhân vừa mang tính nhân dân rộng rãi và tính dân tộc sâu sắc. Nhà nước xã hội chủ nghĩa mà chúng ta xây dựng xét về bản chất là nhà nước của dân, do dân, vì dân.
b)      Chức năng, nhiệm vụ của nhà nước xã hội chủ nghĩa
          Nhà nước xã hội chũ nghĩa có hai chức năng:
         - Chức năng giai cấp (bạo lực trấn áp): đây là chức năng vốn có của các nhà nước, việc nhà nước xã hội chủ nghĩa sử dụng công cụ bạo lực để chống lại sự phản kháng, xâm lược, phá hoại của kẻ thù giai cấp, bảo vệ thành quả cách mạng, bảo vệ nhân dân đó là điều cần thiết và tất yếu. Tuy nhiên chức năng này cùng lắm chỉ bảo vệ sự tồn tại chứ chưa thể tạo ra được một chế độ xã hội mới.
          - Chức năng tổ chức xây dựng: đây là chức năng căn bản, quyết định sự hình thành và phát triển của chế độ mới. Việc tổ chức xây dựng mang tính sáng tạo nhằm cải tiến trật tự chủ nghĩa tư bản, dần hình thành những quan hệ kinh tế mới, tạo ra một xã hội mới là nhiệm vụ cấp bách quan trọng hơn là đập tan sự phản kháng của kẻ thù giai cấp.
           - Nhiệm vụ của nhà nước xã nội chủ nghĩa:
            Trong lĩnh vực kinh  tế: việc phát triển mạnh các lực lượng sản xuất, củng cố kỷ luật lao động mới, nâng cao năng suất lao động được xem là nhiệm vụ cơ bản.
             Trong lĩnh vực xã hội: phải tạo ra quan hệ xã hội mới, tạo ra những tổ chức lao động mớicó khả năng phối hợp những thành tượu mới nhất của khoa học và kỹ thuật với sự tập hợp đông đảo những người lao động, cải tạo dần sản xuất hàng hoá nhỏ thông qua một công tác tổ chức lâu dài.
              Đề cập đến chức năng tổ chức xây dựng V.I.Lênin dành sự chú ý đặc biệt cho nhiệm vụ quảng lý. Trong nhiệm vụ quản lý toàn diện đời sống xã hội, V.I.Lênin xem quản lý nhà nước trong thời kỳ chuyên chính vô sản thực chất là quản lý kinh tế.
III – ĐỔI MỚI HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA NHÀ NƯỚC VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
             Nhà nước ta là “ trụ cột” của hệ thống chính trị, song sự tồn tại, vận hành của nó chịu ảnh hưởng rất lớn bởi các yếu tố cấu thành hệ thống đó. Do vậy không thể có nhà nước mạnh nếu như không có hệ thống chính trị mạnh.
           + Những bước tiến bộ quan trọng của hệ thống chính trị nước ta sau hai mươi năm đổi mới:
           -  Đảng ta không ngừng được củng cố về chính trị, tư tường và tổ chức. Về chính trị: vai trò lãnh đạo của Đảng ngày càng được tăng cường; đường lối đổi mới ngày càng được hoàn thiện, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ngày càng rõ hơn. Về tư tưởng: chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng. Về tổ chức: Đảng giử vững nguyên tắc tập trung dân chủ, phát huy tinh thần sáng tạo, nhạy bén và triển khai thực hiện có hiệu quả chủ trương đường lối của Đảng.
             -  Trên lĩnh vực lập pháp: nhà nước ban hành hiến pháp 1992 nhằm thể chế hoá cương lĩnh đường lối đổi mới của Đảng; sửa đổi ban hành nhiều văn bản pháp luật quan trọng liên quan tới tổ chức và hoạt động của các cơ quan quyền lực nhà nước, các tổ chức chính trị- xã hội, các thành phần kinh tế; quyền công dân quyền con người được thể chế hoá một cách cụ thể.
                -  Nền hành chính quốc gia được cải cách , việc quản lý nhà nước bằng pháp luật từng bước được xác lập , nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam được xây dựng và củng cố .
               -  Mặt trận Tổ quốc , các tổ chức chính trị – xã hội , các đoàn thể nhân dân từng bước đổi mới về nội dung , phương thức hoạt động ; lấy việc bảo vệ lợi ích chính đáng của các thành viên trong tổ chức mình là một chức năng cực kỳ quan trọng , nhờ vậy hoạt động của các hội đoàn ngày càng có hiệu quả .
              +  Những tồn tại cần khắc phục trong hệ thống chính trị nước ta:
                -  Nhiều vấn đề lý luận về Đảng Cộng Sản cầm quyền trong điều kiện kinh tế thị trường còn chưa được làm sáng tỏ . Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tệ quan liêu tham nhũng …đang diễn ra ở một bộ phận cán bộ công chức .
                 -  Đổi mới nền hành chính quốc gia còn nhiều hạn chế, tình trạng quan liêu của cán bộ làm công tác hành chính vẫn còn nặng nề . Bộ máy nhà nước còn cồng kềnh, nhiều đầu mối tầng nấc trung gian .
                 -  Phong cách hoạt động của mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị – xã hội vẫn còn tình trạng quan liêu, “viên chức hoá” .
               +  Tiếp tục đổi mới hệ thống chính trị nhằm khắc phục những yếu kém là đòi hỏi bức thiết để thực hiện quyền dân chủ của nhân dân .
  -  Đảng cộng sản :
                Đảng tiếp tục lãnh đạo bằng phương thức vốn có của một Đảng Mác-Lênin, nghĩa là thông qua tuyên truyền, thuyết phục, giáo dục, bằng sự nêu gương của đảng viên và các tổ chức cơ sỏ Đảng. Mặt khác Đảng phải tăng cường bản chất giai cấp công nhân của mình, củng cố quan hệ gắn bó mật thiết giữa Đảng với nhà nước và nhân dân .
    -  Nhà nước :
                 Để phát huy dân chủ một mặt nhà nước phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, mặt khác phải xuất phát từ lợi ích chính đáng của nhân dân .Phải xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân do dân vì dân. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp .
                 Quốc hội : để nâng cao quản lý của nhà nước và phát huy quyền làm chủ của nhân dân cần chú ý đặc biệt đến quá trình lập pháp lập quy . Quốc hội cần phải : Xây dựng chương trình lập pháp; nâng cao kiến thức lập pháp của đại biểu quốc hội; nâng cao trình độ, năng lực thẩm tra các dự án luật của hội đồng dân tộc, của các ủy ban quốc hội; xác định rõ hơn quyền lập pháp và lập quy … Cần tập trung trí tuệ các nhà khoa học, chuyên gia, lấy ý kiến nhân dân nhất là các đối tượng có liên quan đến việc thi hành luật để xây dựng hệ thống pháp luật .
            Chính phủ : để nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước và thực hành dân chủ phải xem cải cách nền hành chính quốc gia là nhiệm vụ trọng điểm . Cải cách hành chính phải tiến hành đồng bộ ba vấn đề : cải cách thể chế hành chính; cải cách tổ chức bộ máy hành chính;  công tác cán bộ, công chức hành chính .
              Về cải cách thể chế hành chính : phải cải cách thủ tục hành chính, cần giảm tối đa cơ chế xin phép – cho phép trong từng vụ việc . Phải hoàn thiện thể chế quản lý bằng pháp luật, đề cao trách nhiệm của công dân.
              Về cải cách tổ chức bộ máy hành chính : cần chấn chỉnh cơ cấu tổ chức, biên chế , quy chế hoạt động của bộ máy hành chính các cấp ; định rõ thứ bậc và quan hệ thứ bậc trong bộ máy hành chính, xác định rõ vị trí vai trò từng cấp chính quyền ; kiện toàn bộ máy chính quyền cơ sở .
                -  Về công tác cán bộ, công chức hành chính : việc ban hành quy chế về chế độ công vụ và công chức là rất cần thiết, định rõ nghĩa vụ trách nhiệm thẩm quyền, quyền lợi và kỷ luật hành chính ; quy định chế độ đào tạo tuyển dụng và sàng lọc công chức ; xây dựng đội ngũ công chức có chuyên môn kỹ năng nghiệp vụ cao, giác ngộ về chính trị, có tinh thần trách nhiệm, tận tuỵ với công việc .
                 - Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội của nhân dân, để phát huy dân chủ cần được đổi mới theo hướng : Cần phát huy khối đại đoàn kết toàn dân tộc, toàn giai cấp, tầng lớp, tôn giáo, người Việt Nam ở trong nước và định cư nước ngoài … Xoá bỏ mọi định kiến, mặc cảm, lấy mục tiêu “ dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh “ làm điểm tương đồng .
             Mặt trận Tổ quốc vận động, tổ chứa nhân dân xây dựng bảo vệ chính quyền ; thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc bằng các hình thức đa dạng linh hoạt rộng khắp đến từng địa phương cơ sở . Phải củng cố khối liên minh công – nông – trí thức làm cho nó thực sự là nền tảng của mặt trận .
             Để phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa cần hoàn thiện nền dân chủ đại diện, mở rộng dân chủ trực tiếp của nhân dân . Một vấn đề cấp thiết là nâng cao chất lượng các tổ chức quần chúng, làm cho các tổ chức gần gũi với nhân dân, có như thế mới nắm được tâm tư nguyện vọng quần chúng để phản ánh cho các tồ chức Đảng, nhà nước kịp thời .

CHƯƠNG VIII
CƠ CẤU XÃ HỘI – GIAI CẤP VÀ LIÊN MINH GIỮA CÔNG NHÂN VỚI NÔNG DÂN VÀ TRÍ THỨC TRONG QUÁ  TRÌNH XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
I - CƠ CẤU XÃ HỘI – GIAI CẤP TRONG QUÁ TRÌNH XÂYDỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
1 Quan niệm về cơ cấu xã hội- giai cấp
a) Cơ cấu xã hội và cơ cấu xã hội-giai cấp
Cơ cấu xã hội là tất cả những cộng đồng người trong xã hội và mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau giữa các cộng đồng đó.
Cộng đồng xã hội là một bộ phận người có chung một số dấu hiệu, nguyên tắc. Tùy theo cách xác định các dấu hiệu, nguyên tắcmà người ta có thể xác định những cộng đồng với các tên gọi khác nhau ( dân tộc, giai cấp, tập thể, đơn vị …) Có hai loại cộng đồng: cộng đồng khách quan được hình thành một cách tự nhiên, không phụ thuộc vào ý muốn con người và cộng đồng chủ quan được hình thành từ ý đồ, mục đích của con người.           Cơ cấu xã hội là tất cả những cộng đồng người và toàn bộ các quan hệ xã hội do sự tác động lẫn nhau của các cộng đồng ấy tạo nên. Để tiện cho việc nghiên cứu, cơ cấu xã hội đề cập chủ yếu đến các cộng đồng hình thành một cách khách quan, dựa trên các dấu hiệu tự nhiên như giai cấp, dân số, dân cư, nghề nghiệp, tôn giào, dân tộc… Từ đó, người ta có thể xem xét các loại hình cơ cấu xã hội tương ứng: cơ cấu xã hội – giai cấp, cơ cấu xã hội - dân số, cơ cấu xã hội - nghề nghiệp, cơ cấu xã hội - dân cư, cơ cấu xã hội - dân tộc.
Dưới góc độ chính trị – xã hội, chủ nghĩa xã hội khoa học chỉ tập trung nghiên cứu cơ cấu xã hội - giai cấp.
Cơ cấu xã hội - giai cấp là hệ thống các giai cấp, tầng lớp xã hội và các mối quan hệ giữa chúng. Đó là các mối quan hệ về sở hữu, quản lý, địa vị chính trị - xã hội…
b) Vị trí của cơ cấu xã hội - giai cấp  trong cơ cấu xã hội
Cơ cấu xã hội - giai cấp liên quan trực tiếp đến quan hệ sở hữu  đối với tư liệu sản xuất, vị trí các giai cấp trong hệ thống sản xuất xã hội, vai trò của các giai cấp trong lao động xã hội, về phân phối thu nhập giữa các giai cấp.
Khi giai cấp nào nắm tư liệu sản xuất thì sẽ làm chủ về kinh tế, khi ấy giai cấp đó cũng quy định tính chất và bản chất các mối quan hệ khác thuộc kiến trúc thượng tầng: chính trị, đạo đức, pháp luật, hệ tư tưởng…
Cơ cấu xã hội - giai cấp là yếu tố đặc trưng cho sự khác nhau về chất giữa các chế độ xã hội. Khi cơ cấu xã hội – giai cấp biến đổi sẽ kéo theo sự biến đổi của toàn bộ cơ cấu xã hội.          
Vị trí cơ cấu xã hội - giai cấp có ý nghĩa quan trọng, nó là cơ sở để các nước xây dựng các chính sách phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội trong từng giai đoạn cụ thể.
2. Xu hướng biến đổi cơ cấu xã hội - giai cấp trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội
a) Xu hướng chủ yếu.
Cơ cấu xã hội - giai cấp trong thời kỳ quá độ diễn ra theo bốn xu hướng xích lại gần nhau:
+ Sự xích lại gần nhau từng bước giữa các giai tầng xã hội về mối quan hệ đối với tư liệu sản xuất. Đó là quá trình hoàn thiện dần quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa từ thấp đến cao.Với chủ trương phát triển tổng hợp các thành phần kinh tế, đa dạng hoá các hình thức sở hữu làm cho các thành phần kinh tế liên kết liên doanh trong sản xuất, tạo điều kiện cho các thành phần xã hội tồn tại bên nhau, đan xen, xích lại gần nhau cùng phát triển.
+ Sự xích lại gần nhau về tính chất lao động giữa các giai cấp, tầng lớp trong xã hội. Xu hướng này thể hiện thông qua việc phát triển cách mạng khoa học và công nghệ,  áp dụng các thành tựu mới vào sản xuất làm rút ngắn khoảng cách giữa các lực lượng xã hội trong quá trình lao động, từ đó tạo điều kiện cho xu hướng hội nhập và quốc tế hoá trong lĩnh vực sản xuất.
+ Sự xích lại gần nhau về mối quan hệ phân phối tư liệu tiêu dùng giữa các giai cấp, tầng lớp. Xu hướng này chủ yếu liên quan tới việc hoàn thiện dần nguyên tắc phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế.
   + Sự xích lại gần nhau về đời sống tinh thần ngày càng tiến bộ giữa các giai cấp tầng lớp. Thể hiện trực tiếp thông qua cách mạng trong lĩnh vực tư tưởng văn hoá, làm xoá dần những cách biệt giữa thành thị và nông thôn, giữa lao động chân tay và lao động trí óc.
b) Những vấn đề có tính quy luật của sự biến đổi cơ cấu xã hội - giai cấp.
- Sự biến đổi cơ cấu xã hội - giai cấp được quy định bởi biến đổi của cơ cấu kinh tế. Nó liên quan đến cơ cấu ngành nghề kinh tế, thành phần kinh tế…
Trong thời kỳ quá độ tồn tại nhiều thành phần kinh tế đan xen, đấu tranh chuyển hóa lẫn nhau, tất yếu cũng có sự đan xen và đấu tranh chuyển hóa lẫn nhau của cơ cấu xã hội – giai cấp cũ và mới. Quá trình biến đổi đó là quá trình phát triển đa dạng phức tạp và dần ổn định theo xu hướng cơ cấu giai cấp mới khi nền kinh tế ổn định, quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa đạt được những kết quả cơ bản.
Trong thời kỳ quá độ, cơ cấu xã hội - giai cấp biến động, phát triển trong mối quan hệ vừa có mâu thuẫn vừa có liên minh , tạo nên sự hợp tác xích lại gần nhau giữa các giai tầng xã hội, xóa dần những quan hệ bóc lột, bất bình đẳng đặc biệt giữa công - nông - trí thức.
- Xu hướng phát triển cơ cấu xã hội - giai cấp ở Việt Nam trong thời kỳ quá độ vừa mang tính đa dạng, vừa mang tính thống nhất.
Tính đa dạng thể hiện ở sự tồn tại các giai cấp, tầng lớp, các nhóm xã hội trong nền kinh tế nhiều thành phần.
Tính thống nhất thể hiện ở chỗ trong cơ cấu xã hội – giai cấp ấy, giai cấp công nhân ngày càng phát triển mạnh mẽ cả số lượng lẫn chất lượng, là lực lượng tiêu biểu cho phương thức sản xuất mới. Khối liên minh công - nông - trí thức ngày càng giữ vị trí nền tảng chính trị - xã hội ở nước ta.
II  LIÊN MINH CÔNG- NÔNG- TRÍ THỨC TRONG QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
1. Tính tất yếu của liên minh giữa giai cấp công nhân với nông dân và trí thức
Sau khi tổng kết phong trào công nhân ở châu Au (Anh, Pháp cuối thế kỷ 19) Mác - Ăngghen chỉ ra nguyên nhân thất bại là do giai cấp công nhân không liên minh được với “người bạn đồng minh tự nhiên” của mình là giai cấp nông dân. Do đó, giai cấp công nhân luôn đơn độc và cách mạng vô sản đã trở thành “bài ca ai điếu”.
Trong giai đoạn chủ nghĩa đế quốc, Lênin vận dụng nguyên lý liên minh công, nông của Mác - Ăngghen và đã thắng lợi trong Cách mạng Tháng Mười Nga 1917.
Trong thời kỳ đầu thời kỳ quá độ, Lênin chỉ rõ, giai cấp công nhân không chỉ liên minh với nông dân mà còn liên minh với các tầng lớp lao động khác như tiểu thương, thợ thủ công, trí thức…để tạo thành sức mạnh hoàn thành nhiệm vụ chung.
2.  Nội dung của liên minh công- nông- trí thức
Liên minh công- nông- trí thức là sự hợp tác toàn diện giữa công nhân, nông dân và trí thức trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
- Nội dung kinh tế: trong xây dựng chủ nghĩa xã hội, liên minh công- nông- trí thức dưới góc độ kinh tế giữ vai trò quyết định. Điều đó do sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội quy định phải gắn chặt nông nghiệp với công nghiệp, với dịch vụ khoa học công nghệ nhằm thoả mãncác nhu cầu lợi ích kinh tế của công nhân, nông dân và trí thức.
- Nội dung chính trị: Khối liên minh công- nông- trí thức là cơ sở vững chắc cho khối đại đoàn kết toàn dân tộc tạo nên sức mạnh vượt qua những khó khăn, đập tan âm mưu thủ đoạn chống phá của kẻ thù. Mặt khác khối liên minh được xây dựng và củng cố nhằm giữ vững vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân đối với toàn xã hội.
- Nội dung văn hoá xã hội: Liên minh công- nông- trí thức nhằm đảm bảo xăy dựng nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, có khả năng tiếp thu các giá trị, tinh hoa văn hoá thế giới. Trong nội dung này, trí thức giữ vai trò đặc biệt quan trọng.
III.  CƠ CẤU XÃ HỘI- GIAI CẤP VÀ LIÊN MINH CÔNG- NÔNG- TRÍ THỨC TRONG QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
1.Cơ cấu xã hội- giai cấp trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
- Đặc điểm cơ bản trong thời kỳ quá độ ở nước ta là sự tồn tại nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Tương ứng với nền kinh tế đó là cơ cấu xã hội- giai cấp đa dạng phức tạp bao gồm các giai cấp, tầng lớp khác nhau vừa liên minh vừa đấu tranh với nhau, trong đó giai cấp công nhân giữ vai trò lãnh đạo. Sự hình thành cơ chế thị trường đã dẫn đến những thay đổi trong cơ cấu giai cấp cùng với sự vận động phức tạp của các giai tầng xã hội.
- Cơ cấu giai cấp ở Việt Nam hiện nay bao gồm: giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, đội ngũ trí thức, người sản xuất nhỏ, tầng lớp doanh nhân. Liên minh công- nông- trí thức là cơ sở chính trị- xã hội vững chắc cho chế độ mới. Giai cấp công nhân giữ vai trò lãnh đạo, quyết định xu hướng phát triển của xã hội. Trí thức ngày càng có vai trò quyết định trong khoa học công nghệ. Tầng lớp doanh nhân phát huy vai trò tích cực trong sản xuất kinh doanh, hoạt động theo luật pháp và định hướng của nhà nước xã hội chủ nghĩa.
- Trong giai đoạn đầu của thời kỳ quá độ, các giai cấp, tầng lớp phát triển đa dạng theo nhiều xu hướng khác nhau. Sự ổn định dần của kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa sẽ hình thành từng bước một cơ cấu giai cấp định hướng xã hội chủ nghĩa. Đến cuối thời kỳ quá độ các giai cấp , tầng lớp xích lại gần nhau liên minh hợp tác chặc chẽ ổn định. Trong suốt thời kỳ quá độ, liên minh công- nông- trí thức là lực lượng chính trị- xã hội cơ bản, là nền tảng của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
2.. Liên minh giữa giai cấp công nhân với nông dân và trí thức trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ờ Việt Nam
a) Đặc điểm của giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức Việt Nam.
Giai cấp công nhân: Do số lượng ít nên giai cấp công nhân có nhu cầu liên minh với các giai tầng khác để làm tăng sức mạnh. Đa số công nhân xuất thân từ nông dân nên dễ thực hiện liên minh công, nông. Mặt khác lợi ích giai cấp công nhân là thống nhất với nhân dân lao động và cả dân tộc nên dễ dàng thực hiện liên minh với các giai tầng xã hội khác.
Giai cấp nông dân.  Một mặt là giai cấp đại diện cho nền sản xuất nhỏ, phân tán, năng suất lao động thấp, là giai cấp không có hệ tư tưởng độc lập mà phụ thuộc vào hệ tư tưởng của giai cấp thống trị xã hội.
Mặt khác, trong một nước nông nghiệp họ là lực lượng chính trị – xã hội đông đảo, một lực lượng cách mạng to lớn nhưng do đại diện cho nền sản xuất nhỏ nên không tự giải phóng được mình, họ có nhu cầu liên minh với một người bạn đồng minh để hướng dẫn, lãnh đạo và giúp họ được giải phóng.
Tầng lớp trí thức:  Gồm những người lao động trí óc phức tạp và sáng tạo hoạt động trong nghiên cứu, giảng dạy, ứng dụng khoa học, văn hóa nghệ thuật, lãnh đạo, quản ly… Sản phẩm lao động của họ quyết định đến năng suất, chất lượng, hiệu quả, đến sự phát triển của xã hội cả về vật chất và tinh thần.  Họ không có phương thức sản xuất riêng, nên cũng không có hệ tư tưởng riêng. Trí thức mang hệ tư tuởng của giai cấp lãnh đạo xã hội.
Ở Việt Nam họ xuất thân từ nông dân, công nhân và các tầng lớp lao động khác nên có mối liên hệ gần gũi với các giai tầng xã hội. Họ có nhiều đóng góp trong cách mạng giải phóng dân tộc, là lực lượng cơ bản trong cách mạng xã hội chủ nghĩa. Trong cách mạng khoa học và công nghệ, trí thức có vai trò đặc biệt quan trọng.
b)  Nội dung cơ bản của liên minh giữa công nhân với nông dân và trí thức trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Nguyên tắc cơ bản nhất của liên minh là: kết hợp đúng đắn các lợi ích chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội giữa các giai tầng xã hội.
Lợi ích của giai cấp công nhân về cơ bản là thống nhất với lợi ích các giai tầng lao động nên quan hệ giữa giai cấp công nhân với các giai tầng xã hội là quan hệ hợp tác, đấu tranh trong nội bộ nhân dân vì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
+  Nội dung chính trị của liên minh.
- Nhu cầu lợi ích chính trị của công nhân, nông dân, trí thức và cả dân tộc là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Mỗi giai cấp tầng lớp ở mỗi giai đoạn đều có lập trường chính trị tư tưởng của mình. Khi liên minh không phải là thực hiện sự dung hoà lập trường tư tưởng-chính trị của ba giai tầng này.
Trong chế độ tư hữu, tư tưởng chính trị của nông dân, trí thức cơ bản phụ thuộc vào hệ tư tưởng – chính trị của giai cấp thống trị đó là phong kiến và giai cấp tư bản. Mặc dù họ đều có nguyện vọng được giải phóng, được tự do, nhưng nông dân, trí thức không thể tự giải phóng khỏi chế độ phong kiến, tư bản, áp bức bóc lột.
Trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, liên minh này phải trên cơ sở lập trường chính trị – tư tưởng của giai cấp công nhân là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Có như thế mới thực hiện được đồng thời nhu cầu lợi ích của cả ba giai tầng.
- Nguyên tắc về chính trị của liên minh là do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo. Trong thời kỳ quá độ liên minh này là nền tảng chính trị – xã hội và kinh tế của nhà nước xã hội chủ nghĩa, là nòng cốt của mặt trận Tổ quốc  nhằm để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
+   Nội dung kinh tế của liên minh.
Đây là nội dung cơ bản, trọng tâm quyết định nhất,là cơ sở vật chất kỹ thuật của liên minh. Nội dung kinh tế của liên minh là sự kết hợp đúng đắn các lợi ích kinh tế của các giai tầng xã hội. Trong thời kỳ quá độ nội dung kinh tế thể hiện:
Trước hết phải xác định đúng đắn thực trạng tiềm năng kinh tế của đất nước, từ đó xây dựng cơ cấu “công – nông nghiệp – dịch vụ” phù hợp, nhằm tạo môi trường gắn bó giữa các giai tầng xã hội.
Phải tập trung vào “Công nghiệp hóa – hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn” gắn nông, lâm, ngư nghiệp với công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản. Phát triển công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu.
Phải từng bước hình thành quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, đa dạng hóa các hình thức hợp tác kinh tế, phát triển hợp tác xã, kinh tế hộ gia đình, kinh tế trang trại, dich vụ ở nông thôn. Trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, cùng kinh tế tập thể làm nền tảng cho nền kinh tế cả nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Liên minh về kinh tế còn thể hiện vai trò của nhà nước đối với nông dân thông qua chính sách khuyến nông, thông qua cơ sở kinh tế nhà nước, chính sách ruộng đất, chính sách phát triển nông nghiệp toàn diện, chính sách tiêu thụ nông sản hàng hóa, bảo hiểm sản xuất…phát huy lợi thế từng vùng, giúp đỡ các vùng gặp nhiều khó khăn.
Đối với trí thức, nhà nước cần hoàn chỉnh, đổi mới chính sách có liên quan đến sở hữu trí tuệ: chính sách phát triển khoa học công nghệ, về bản quyền tác giả, về giáo dục đào tạo, về báo chí xuất bản, về văn học nghệ thuật.Qua đó đổi mới cả đào tạo, sử dụng lẫn đãi ngộ…nhằm phát huy những tiềm năng các nhà khoa học đầu đàn, cán bộ khoa học… tăng cường hợp tác khoa học trong nước và quốc tế .
+   Nội dung văn hóa, xã hội của liên minh.
- “Tăng trưởng kinh tế phải trên cơ sở gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ môi trường sinh thái.”(1) Đó là sự thể hiện tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội, tất cả vì con người, cho con người.
Liên minh về văn hóa xã hội gắn liền vấn đề xóa đói giảm nghèo, giải quyết công ăn việc làm cho người lao động, không để việc thất nghiệp trở thành gánh nặng của xã hội.
Giải quyết tốt chế độ chính sách cho người có công với cách mạng, gia đình thương binh, liệt sĩ...... góp phần tích cực vào công tác giáo dục truyền thống, đạo lý, lối sống cho các thế hệ sau.
Thực hiện xóa nạn mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học cho nông dân, nhất là miền núi. Khắc phục các tệ nạn xã hội, hủ tục lạc hậu ở nông thôn, chống những biểu hiện tiêu cực trong cơ quan nhà nước như tham nhũng, hối lộ, quan liêu…
Gắn quy hoạch phát triển công nghiệp, khoa học công nghệ với quy hoạch phát triển nông thôn. Đô thị hoá, công nghiệp hoá, đặc biệt chú trọng vùng núi, vùng dân tộc ít người.

CHƯƠNG IX
VẤN ĐỀ DÂN TỘC TRONG QUÁ TRÌNH
XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
I. DÂN TỘC VÀ HAI XU HƯỚNG KHÁCH QUAN CỦA SỰ PHÁT TRIỂN CÁC DÂN TỘC
1. Khái niệm và những đặc trưng cơ bản của dân tộc
a. Khái niệm dân tộc
Dân tộc là sản phẩm của một quá trình phát triển lâu dài của xã hội loài người. Trước khi dân tộc xuất hiện, loài người đã trải qua những hình thức cộng đồng người phát triển từ thấp đến cao: thị tộc, bộ lạc, bộ tộc.
Ơ phương Tây, dân tộc xuất hiện khi phương thức sản xuất tư bản chủ  nghĩa được xác lập và thay thế vai trò của phương thức sản xuất phong kiến.
Ơ một số nước phương Đông, do tác động của hoàn cảnh mang tính đặc thù, đặc biệt do sự thúc đẩy của quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước, dân tộc đã hình thành trước khi chủ nghĩa tư bản được xác lập.
Cho đến nay, khái niệm dân tộc được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau, trong đó có hai nghĩa được dùng phổ biến nhất:
Một là, dân tộc được hiểu như một tộc người, hay một dân tộc trong một quốc gia đa dân tộc, đó là một khối cộng đồng người có mối liên hệ chặt chẽ và bền vững, dựa trên cơ sở cùng chung sinh hoạt kinh tế, cùng tồn tại trong một vùng lãnh thổ nhất định, có ngôn ngữ  riêng và  những đặc điểm chung về tâm lý, văn hoá , ý thức trong cộng đồng; xuất hiện và phát triển cao hơn thị tộc,  bộ lạc, bộ tộc.
  Hai là, chỉ một cộng đồng người ổn định hợp thành nhân dân một nước, có lãnh thổ quốc gia, có nền kinh tế thống nhất, có ngôn ngữ chung và ý thức về sự thống nhất quốc gia của mình, gắn bó với nhau bởi lợi ích chính trị, kinh tế, truyền thống văn hoá và truyền thống đấu tranh chung trong suốt quá trình lịch sử lâu dài dựng nước và giữ nước.
Với nghĩa thứ nhất, dân tộc là một bộ phận của quốc gia, với nghĩa thứ hai, dân tộc là toàn bộ nhân dân của quốc gia đó- quốc gia dân tộc. Dưới giác độ môn học chủ nghĩa xã hội khoa học, dân tộc được hiểu theo nghĩa thứ nhất. Tuy nhiên chỉ khi đặt nó trong mối liên hệ với nghĩa thứ hai, thì sắc thái nội dung của nó mới bộc lộ đầy đủ.
b. Các đặc trưng của dân tộc
Dân tộc bao gồm các đặc trưng sau:
- Có chung một phương thức sinh hoạt kinh tế. Đây là đặc trưng quan trọng nhất của dân tộc. Các mối quan hệ kinh tế là cơ sở liên kết các bộ phận, các thành viên của dân tộc, tạo nên nền tảng vững chắc của cộng đồng dân tộc.
- Cư trú tập trung trên một vùng lãnh thổ của một quốc gia hoặc cư trú đan xen với nhiều dân tộc anh em.
- Có ngôn ngữ riêng và có thể có chữ viết riêng (trên cơ sở ngôn ngữ chung của quốc gia) làm công cụ giao tiếp trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
- Có nét tâm lý riêng (tâm lý dân tộc) biểu hiện kết tinh trong nền văn hoá dân tộc và tạo nên bản sắc riêng của nền văn hoá dân tộc, gắn bó với nền văn hoá của cả cộng đồng các dân tộc (quốc gia dân tộc).
Như vậy, cộng đồng người ổn định chỉ trở thành dân tộc khi có đủ các đặc trưng trên, các đặc trưng của dân tộc là một chỉnh thể gắn bó chặt chẽ với nhau, đồng thời mỗi đặc trưng có một vị trí xác định.
Dân tộc xã hội chủ nghĩa chỉ xuất hiện do kết quả của sự cải tạo, xây dựng từng bước cộng đồng dân tộc và các mối quan hệ dân tộc theo các nguyên lý của chủ nghĩa xã hội khoa học.
2. Hai xu hướng của sự phát triển các dân tộc và biểu hiện của hai xu hướng khách quan đó trong thời đại ngày nay.
Nghiên cứu vấn đề dân tộc và phong trào dân tộc trong điều kiện của chủ nghĩa tư bản,V.I Lênin đã phát hiện ra hai xu hướng khách quan của sự phát triển các dân tộc.
Xu hướng thứ  nhất : Do sự thức tỉnh, sự trưởng thành của ý thức dân tộc mà các cộng đồng dân cư muốn tách ra để xác lập các cộng đồng dân tộc độc lập. Vì họ hiểu rằng, chỉ trong một cộng đồng độc lập, họ mới có quyền quyết định vận mệnh của dân tộc mình. Trong thực tế xu hướng này đã biểu hiện thành phong trào đấu tranh chống áp bức dân tộc, thành lập các quốc gia dân tộc độc lập. Xu hướng này phát huy tác động nổi bật trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa tư bản và vẫn còn tác động trong giai đoạn đế quốc chủ  nghĩa.
Xu hướng thứ hai : Các dân tộc trong từng quốc gia, thậm chí các dân tộc ở nhiều quốc gia muốn liên hiệp lại với nhau. Xu hướng này phát huy tác dụng nổi bật trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. Chính sự phát triển của lực lượng sản xuất, của khoa học và công nghệ, của giao lưu kinh tế và văn hoá trong xã hội tư bản đã làm xuất hiện nhu cầu xoá bỏ hàng rào ngăn cách giữa các dân tộc, tạo nên mối liên hệ  quốc gia và quốc tế rộng lớn giữa các dân tộc, thúc đẩy các dân tộc xích lại gần nhau.
Hai xu hướng khách quan của phong trào dân tộc do V.I Lênin phát hiện đang phát huy tác dụng trong thời đại ngày nay với những biểu hiện rất phong phú và đa dạng.
·Xét trên phạm vi các quốc gia xã hội chủ nghĩa có nhiều dân tộc: Xu hướng thứ nhất biểu hiện trong sự nỗ lực của từng dân tộc để đi tới sự tự chủ và phồn vinh của bản thân dân tộc mình. Xu hướng thứ hai tạo nên sự thúc đẩy  mạnh mẽ để các dân tộc trong cộng đồng quốc gia xích lại gần nhau , hoà hợp với nhau ở mức độ cao hơn trong mọi lĩnh vực của đời sống.
Ở các quốc gia xã hội chủ nghĩa, hai xu hướng phát huy tác động cùng chiều, bổ sung hỗ trợ cho nhau và diễn ra trong từng dân tộc, trong cả cộng đồng quốc gia và đến tất cả các quan hệ dân tộc.
·         Xét trên phạm vi thế giới: sự tác động của hai xu hướng khách quan thể hiện rất nổi bật. Bởi vì thời đại ngày nay là thời đại của các dân tộc bị áp bức đã vùng dậy , xoá bỏ ách đô hộ của chủ nghĩa đế quốc và giành lấy sự tự quyết định vận mệnh của dân tộc mình, bao gồm  quyền tự lựa chọn chế độ chính trị và con đường phát triển của dân tộc, quyền bình đẳng với các dân tộc khác. Đây là một trong những mục tiêu chính trị chủ yếu của thời đại – mục tiêu độc lập dân tộc.
Đặc biệt vào những năm 90 của thế kỷ XX, xu hướng “tập đoàn hoá” ở các khu vực của thế giới tăng lên rõ rệt không chỉ do tác động của lợi ích kinh tế  mà còn do sự thúc đẩy của các lợi ích chính trị. Hơn nữa sự liên minh đó còn tạo nên sức hút trên toàn cầu nhằm tập trung giải quyết những vấn đề  chung của cả nhân loại như : chống nguy cơ chiến tranh hạt nhân, ô nhiễm môi trường, bùng nổ dân số, bệnh hiểm nghèo …..
Dựa trên sự phân tích hai xu hướng khách quan của phong trào dân tộc trong thời đại ngày nay, Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định “ giữ vững độc lập tự chủ đi đôi với mở rộng hợp tác quốc tế , đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ đối ngoại” là nguyên tắc thống nhất của đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước Việt Nam.
II. NỘI DUNG CƯƠNG LĨNH DÂN TỘC CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN
1. Các dân tộc hoàn toàn bình đẳng
Đây là quyền thiêng liêng của các dân tộc. Các dân tộc hoàn toàn bình đẳng có nghĩa là : các dân tộc dù lớn hay nhỏ không phân biệt trình độ phát triển cao hay thấp  đều có nghĩa vụ và quyền lợi ngang nhau; không một dân tộc nào được giữ đặc quyền đặc lợi và đi áp bức bóc lột dân tộc khác trong phạm vi một quốc gia cũng như trên thế giới.
Trong một quốc gia có nhiều dân tộc, quyền bình đẳng giữa các dân tộc không chỉ dừng lại ở tư tưởng, ở pháp lý mà quan trọng hơn là phải được thực hiện ngay trong thực tế trong mọi lĩnh vực của đời sống xã  hội. Trong đó việc phấn đấu khắc phục chênh lệch về trình độ phát triển kinh tế, văn hoá do lịch sử để lại có ý nghĩa cơ bản.
Trên phạm vi thế giới, đấu tranh cho sự bình đẳng giữa các dân tộc trong giai đoạn hiện nay gắn liền với cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, chủ nghĩa Sô-vanh nước lớn, chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, chủ nghĩa Phát-xít mới. Đồng thời gắn liền với cuộc đấu tranh xây dựng một trật tự  thế giới mới,  chống  áp bức bóc lột của các nước tư bản phát triển đối với các nước chậm phát triển về kinh tế.
Thực hiện quyền bình đẳng giữa các dân tộc là cơ sở để thực hiện quyền dân tộc  tự quyết và xây dựng mối quan hệ  hợp tác hữu nghị giữa các dân tộc.



2. Các dân tộc được quyền tự quyết.
Quyền dân tộc tự quyết là quyền làm chủ của mỗi dân tộc đối với vận mệnh dân tộc mình, quyền tự quyết định chế độ chính trị - xã hội và con đường phát triển của dân tộc mình.
 Quyền dân tộc tự quyết bao gồm quyền tự do độc lập về chính trị của dân tộc mình, các dân tộc có thể tách ra thành lập một quốc gia dân tộc độc lập vì lợi ích của các dân tộc. Mặt khác cũng bao gồm quyền tự nguyện liên hiệp với các dân tộc khác trên cơ sở bình đẳng cùng có lợi để có đủ sức mạnh chống nguy cơ xâm lược từ bên ngoài, giữ vững độc lập chủ quyền và có thêm những điều kiện thuận lợi cho sự phát triển quốc gia - dân tộc.
Khi xem xét, giải quyết quyền tự quyết của dân tộc cần đứng vững trên lập trường của giai cấp công nhân. Ủng hộ các phong trào dân tộc tiến bộ phù hợp với lợi ích chính đáng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Kiên quyết đấu tranh chống lại mọi âm mưu, thủ đoạn của các thế lực đế quốc  và phản động lợi dụng chiêu bài “ dân tộc tự quyết” để can thiệp vào công việc nội bộ của các nước, giúp đỡ các thế lực phản động dân tộc chủ nghĩa  đàn áp các lực lượng tiến bộ, đòi ly khai và đi vào quỹ đạo của chủ nghĩa thực dân mới, chủ nghĩa tư bản.
3. Liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc
Giai cấp công nhân ở mỗi nước phải lấy việc đoàn kết công nhân các dân tộc làm mục tiêu hành động và phối hợp nhau trong cuộc đấu tranh chung chống kẻ thù giai cấp xoá bỏ hận thù dân tộc.
Liên hiệp công nhân  tất cả các dân tộc là tư tưởng cơ bản trong cương lĩnh dân tộc của V.I Lênin, nó phản ánh bản chất quốc tế của phong trào công nhân, phản ánh sự thống nhất giữa sự nghiệp giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp. Nó là yếu tố sức mạnh đảm bảo cho giai cấp công nhân và các dân tộc bị áp bức chiến thắng kẻ thù của mình.                         
Liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc quy định mục tiêu, đường lối, phương pháp xem xét cách giải quyết quyền dân tộc tự quyết, quyền bình đẳng giữa các dân tộc. Vì vậy, nó đóng vai trò liên kết cả ba nội dung trong cương lĩnh dân tộc thành một chỉnh thể thống nhất.
Tóm lại:  Cương lĩnh dân tộc của chủ nghĩa Mác Lênin là một bộ phận trong cương lĩnh cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp. Nó là cơ sở lý luận của đường lối, chính sách dân tộc của các Đảng cộng sản và Nhà nước xã hội chủ nghĩa.
III. ĐẶC ĐIỂM QUAN HỆ  DÂN TỘC VIỆT NAM VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC CỦA ĐẢNG, NHÀ NƯỚC TA HIỆN NAY.
1. Đặc điểm quan hệ dân tộc ở Việt Nam
Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc thống nhất bao gồm 54 thành phần dân tộc. Dân tộc Kinh chiếm 87% dân số, còn lại 53 dân tộc thiểu số chiếm 13% dân số phân bố rải rác trên địa bàn cả nước. Đặc trưng nổi bật trong quan hệ giữa các dân tộc ở Việt Nam là sự cố kết dân tộc, hoà hợp dân tộc trong một cộng đồng thống nhất đã trở thành truyền thống, thành sức mạnh và được thử thách qua hàng ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước.
Hình thái cư trú xen kẽ giữa các dân tộc ngày càng tăng, tuy trong từng khu vực nhất định có những dân tộc sống tương đối tập trung, nhưng không thành địa bàn riêng biệt.
Do điều kiện tự nhiên, xã hội và hậu quả của các chế độ áp bức bóc lột trong lịch sử nên trình độ phát triển kinh tế , văn hoá ….giữa các dân tộc còn có sự khác biệt, đặc biệt là giữa dân tộc Kinh với các dân tộc ít người.
Các dân tộc thiểu số tuy chỉ chiếm 13% dân số  cả nước nhưng lại cư trú trên các địa bàn có vị trí chiến lược quan trọng về chính trị, kinh tế, quốc phòng, an ninh và giao lưu quốc tế.
Xuất phát từ tình hình, đặc trưng cơ bản của dân tộc Việt Nam, Đảng và Nhà nước ta luôn luôn quan tâm đến vấn đề chính sách dân tộc xem xét nó như  là vấn đề xã hội  chính trị rộng lớn,  gắn liền với các mục tiêu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
2. Chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước Việt Nam hiện nay.
Dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin về vấn đề dân tộc và thực tiễn lịch sử đấu tranh cách mạng để xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam cũng như dựa vào tình hình thế giới trong giai đoạn hiện nay, Đảng và Nhà nước ta ngay từ khi thành lập cho đến nay luôn coi vấn đề dân tộc và xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc có tầm quan trọng đặc biệt. Trong văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Đảng Cộng sản Việt Nam đã nêu rõ : Vấn đề dân tộc và đoàn kết các dân tộc luôn có vị trí chiến lược lâu dài trong sự nghiệp cách mạng.
Những chính sách dân tộc cơ bản của Đảng và Nhà nước ta  được thể hiện cụ thể như sau:
-  Có chính sách phát triển kinh tế hàng hoá ở các vùng dân tộc thiểu số phù hợp với điều kiện và đặc điểm từng vùng, từng dân tộc, đảm bảo cho đồng bào các dân tộc khai thác được thế mạnh của địa phương  để làm giàu cho mình và đóng góp vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đây là vấn đề cực kỳ quan trọng để khắc phục sự chênh lệch về kinh tế, văn hoá, bảo đảm sự bình đẳng thực sự giữa các dân tộc.
Tôn trọng lợi ích, truyền thống, văn hoá, ngôn ngữ, tập quán, tín ngưỡng của đồng bào các dân tộc; từng bước nâng cao dân trí, nhất la các dân tộc thiểu số ở  vùng núi cao, hải đảo. Đây là vấn đề quan trọng và tế nhị, cần lắng nghe ý kiến và có chính sách cụ thể nhằm làm cho nền văn hoá chung vừa hiện đại vừa đậm đà bản sắc dân tộc, phong phú, rực rỡ.
-  Tiếp tục phát huy truyền thống đoàn kết và đấu tranh kiên cường của các dân tộc vì sự nghiệp dân giàu nước mạnh, chống tư tưởng dân tộc lớn và dân tộc hẹp hòi, nghiêm cấm mọi hành vi miệt thị và chia rẽ dân tộc.
-  Tăng cường bồi dưỡng, đào tạo đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số; đồng thời giáo dục tinh thần đoàn kết hợp tác cho cán bộ các dân tộc.

CHƯƠNG X
VẤN ĐỀ TÔN GIÁO TRONG QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
I. BẢN CHẤT, NGUỒN GỐC VÀ TÍNH CHẤT CỦA TÔN GIÁO
1. Bản chất của tôn giáo
Theo quan điểm của chủ  nghĩa Mác-Lênin: Tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội phản ánh một cách hoang đường, hư ảo hiện thực khách quan. Qua sự phản ánh của tôn giáo, những sức mạnh tự phát trong tự nhiên và xã hội đều trở thành thần bí.
Giữa tín ngưỡng và tôn giáo có sự khác nhau, song lại có quan hệ chặt chẽ mà ranh giới  để phân biệt chúng chỉ  là tương đối.
Tín ngưỡng là niềm tin và sự ngưỡng mộ của con người vào một hiện tượng, một lực lượng siêu nhiên vô hình tác động đến tâm linh con người, trong đó bao hàm cả niềm tin tôn giáo. Còn tôn giáo là một hiện tượng xã hội bao gồm: ý thức tôn giáo; niềm tin tôn giáo; hành vi và các tổ chức hoạt động tín ngưỡng tôn giáo ( trong đó lấy niềm tin tôn giáo làm cơ sở ), - nghĩa là, tôn giáo thường có giáo lý, giáo luật, lễ nghi và các tổ chức giáo hội.
Mê tín dị đoan là niềm tin cuồng vọng của con người vào các lực lượng siêu nhiên đến mức độ mê muội với những hành vi cực đoan, phi nhân tính, phản văn hóa của một số người gọi chung là cuồng tín. Nó là một hiện tượng xã hội tiêu cực. Hiện tượng mê tín dị đoan thường gắn chặt và lợi dụng các hình thức sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo để hành nghề.
Do vậy, cùng với việc tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân thì cần phải loại bỏ dần m tín dị đoan, làm lành mạnh hóa đời sống tinh thần x hội.
Tôn giáo là sản phẩm của con người, gắn với những điều kiện lịch sử tự nhiên và lịch sử xã hội. Do đó, xét về mặt bản chất, tôn giáo là một hiện tượng xã hội phản ánh sự bất lực, bế tắc của con người trước tự nhiên và xã hội. Tuy nhiên, tôn giáo cũng chứa đựng một số nhân tố giá trị văn hoá phù  hợp với đạo đức, đạo lý của xã hội. Về phương diện thế giới quan thì thế giới quan duy vật mácxít và thế giới quan tôn giáo là đối lập nhau.
2. Nguồn gốc xuất hiện tôn giáo
a. Nguồn gốc kinh tế – xã hội
Trong xã hội cộng sản nguyên thủy do trình độ lực lượng sản xuất thấp kém, con người không giải thích được những hiện tượng tự phát của tự nhiên. Vì vậy, họ đã gán cho tự nhiên những sức  mạnh thần bí. Đó là những biểu tượng tôn giáo đầu tiên.
Khi xã hội xuất hiện giai cấp đối kháng, cùng với những hệ quả của nó là: áp bức, bóc lột, bất công, phân hoá giàu nghèo, tội ác. Con người cảm thấy bất lực và không giải thích được, từ đó con người hướng niềm tin ảo tưởng vào “thế giới bên kia” dưới hình thức tôn giáo.
b. Nguồn gốc nhận thức
Sự hiểu biết của con người về tự nhiên, xã hội và bản thân luôn có giới hạn. Khoa học có nhiệm vụ khám phá những điều chưa biết. Song khoảng cách giữa biết và chưa biết luôn tồn tại, điều gì chưa giải thích được thì người ta lấy yếu tố siêu nhiên để giải thích.
c. Nguồn gốc tâm lý
Sự sợ hãi, sự kính trọng, lòng biết ơn, trong quan hệ giữa người với người, giữa người với tự nhiên, sự hụt hẫng trống vắng trong tâm hồn, nhu cầu được an ủi, xoa dịu những nỗi bất hạnh trong cuộc sống… đã làm nảy sinh ra những tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau.
3. Tính chất của tôn giáo
a. Tính lịch sử
Tôn giáo là một phạm trù lịch sử. Tôn giáo không xuất hiện cùng với sự xuất hiện của con người. Nó chỉ xuất hiện khi khả năng tư duy trừu tượng của con người đạt tới một mức độ nhất định.
Tôn giáo là sản phẩm của lịch sử. Trong từng thời kỳ lịch sử, tôn giáo có sự biến đổi cho phù hợp với kết cấu chính trị và xã hội của thời đại đó.
Đến một giai đoạn lịch sử, khi những nguồn gốc sản sinh tôn giáo bị loại bỏ, khoa học và giáo dục giúp cho đại đa số quần chúng nhân dân nhận thức được bản chất các hiện tượng tự nhiên và xã hội thì tôn giáo sẽ dần dần mất đi vị trí của nó trong đời sống xã hội và cả trong nhận thức, niềm tin của mỗi con người.
b. Tính quần chúng
Tính quần chúng của tôn giáo không chỉ biểu hiện ở số lượng tín đồ các tôn giáo. Tính quần chúng của tôn giáo còn thể hiện ở chỗ các tôn giáo là nơi sinh hoạt văn hoá, tinh thần của một số bộ phận quần chúng nhân dân lao động. Bởi vì, tôn giáo thường có tính  nhân văn, nhân đạo và hướng thiện.
c. Tính chính trị
Trong xã hội không có giai cấp, tôn giáo chưa mang tính chính trị. Tính chất chính trị của tôn giáo chỉ xuất hiện khi xã hội đã phân chia giai cấp, có sự khác biệt về lợi ích, các giai cấp thống trị đã lợi dụng tôn giáo để phục vụ lợi ích của mình.
II. VẤN ĐỀ TÔN GIÁO TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XA HỘI
1. Nguyên nhân tồn tại của tôn giáo trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xa hội
Nguyên nhân nhận thức : Ngày nay, nhân loại đã đạt được những thành tựu to lớn về khoa học và công nghệ, giúp con người có thêm khả năng để nhận thức xã hội và làm chủ tự nhiên. Song thế giới khách quan còn nhiều vấn đề khoa học chưa thể làm rõ. Do đó, tâm lý sợ hãi, trông chờ và tin tưởng vào thần, thánh, phật….chưa thể gạt bỏ khỏi ý thức của con người trong xã hội.
Nguyên nhân tâm lý: Tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội bảo thủ nhất. Tín ngưỡng, tôn giáo đã in sâu vào đời sống tinh thần, lối sống của một bộ phận nhân dân qua nhiều thế hệ, trở thành một kiểu sinh hoạt văn hoá tinh thần không thể thiếu của cuộc sống. Mặc dù, xã hội đã có những biến đổi lớn về kinh tế, chính trị, xã hội….nhưng tín ngưỡng, tôn giáo không thay đổi kịp tiến độ của những biến đổi kinh tế, xã hội mà nó phản ánh.
Nguyên nhân chính trị – xã hội:  Trong các nguyên tắc tôn giáo, có những điểm còn phù hợp với chủ nghĩa xã hội, với đường lối chính sách của nhà nước xã hội chủ nghĩa, đáp ứng được yêu cầu tinh thần của bộ phận nhân dân. Vì vậy tôn giáo vẫn tồn tại trong chủ nghĩa xã hội.
Cuộc đấu tranh giai cấp vẫn đang diễn ra dưới nhiều hình thức, các thế lực chính trị vẫn lợi dụng tôn giáo để thực hiện cho mưu đồ chính trị của mình. Cùng với nỗi lo sợ về chiến tranh, bệnh tật, đói nghèo… là điều kiện thuận lợi cho tôn giáo tồn tại.
Nguyên nhân kinh tế:  Trong chủ nghĩa xã hội nhất  là giai đoạn đầu của thời kỳ quá độ còn tồn tại nhiều thành phần kinh tế với những lợi ích khác nhau của các giai tầng xã hội, đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân chưa cao, con người còn chịu tác động của nhiều yếu tố ngẫu nhiên, may rủi. Điều đó làm cho con ngừơi có tâm lý thụ động, cầu mong vào những lực lượng siêu  nhiên.
Nguyên nhân về văn hoá: Sinh hoạt tín  ngưỡng tôn giáo có khả năng đáp ứng ở một mức độ nào đó nhu cầu văn hoá tinh thần và có ý nghĩa nhất định về giáo dục ý thức cộng đồng, đạo đức, phong cách, lối sống. Vì vậy, việc kế thừa, bảo tồn và phát huy văn hoá ( có chọn lọc) của nhân loại trong đó có đạo đức tôn giáo là cần thiết.
2. Những quan điểm chỉ đạo giải quyết vấn đề tôn giáo trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Tín ngưỡng, tôn giáo là một vấn đề tế nhị, nhạy cảm và phức tạp. Vì vậy việc giải quyết vấn đề tôn giáo trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội cần dựa trên những quan điểm sau:
Một là : Chủ nghĩa Mác-Lênin, hệ tư tưởng chủ đạo của xã hội – xã hội chủ nghĩa  và hệ tư tưởng tôn giáo có sự khác nhau cơ bản về thế giới quan, nhân sinh quan và con đường mưu cầu hạnh phúc cho nhân dân. Với hệ thống tín điều và giáo lý của mình, tôn giáo phần nào làm hạn chế khả năng vươn lên làm chủ của con người. Vì vậy, khắc phục dần những ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo trong đời sống xã hội phải gắn liền với quá trình cải tạo xã hội cũ xây dựng xã hội mới là yêu cầu khách quan của xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Hai là : Một khi tín ngưỡng tôn giáo còn là nhu cầu tinh thần của một bộ phận  quần chúng nhân dân thì chính sách nhất quán của Nhà nước xã hội chủ  nghĩa là tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng và quyền tự do không tín ngưỡng của công dân. Mọi công dân theo tôn giáo hoặc không theo tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật, đều có nghĩa vụ và quyền lợi như nhau. Cần phát huy những nhân tố tích cực của tôn giáo, đặc biệt là những giá trị đạo đức, chủ nghĩa nhân đạo và tinh thần yêu nước. Nghiêm cấm mọi hành vi xâm phạm tự do tín ngưỡng của công dân.
Ba là : Thực hiện đoàn kết giữa những người theo với những người không theo một tôn giáo nào, đoàn kết các tôn giáo hợp pháp, chân chính, đoàn kết dân tộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nghiêm cấm mọi hành vi chia rẽ vì lý do tín ngưỡng tôn giáo. Thông qua quá trình cùng nhau đoàn kết xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc, nâng cao mức sống và trình độ kiến thức của quần chúng, những người lao động có tín ngưỡng, tôn giáo sẽ dần dần đến với chủ nghĩa xã hội. Đương nhiên, như vậy không có nghĩa là  coi nhẹ việc giáo dục chủ  nghĩa vô thần khoa học, thế giới quan duy vật cho toàn dân, trong đó có những tín đồ tôn giáo.
Bốn là : Phân biệt rõ hai mặt chính trị và tư tưởng trong việc giải quyết vấn đề tôn giáo.
Mặt tư tưởng thể hiện sự tín ngưỡng trong tôn giáo. Khắc phục mặt này là nhiệm vụ thường xuyên, lâu dài, gắn liền với quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào có tín ngưỡng. Mặt chính trị thể hiện sự lợi dụng tôn giáo để chống lại sự nghiệp đấu tranh cách mạng, xây dựng chủ nghĩa xã hội của những phần tử phản động đội lốt tôn giáo. Đấu tranh loại bỏ mặt chính trị phản động trong lĩnh vực tôn giáo là nhiệm vụ thường xuyên, đòi hỏi phải nâng cao cảnh giác kịp thời chống lại những âm mưu và hành động của các thế lực thù địch lợi dụng tôn giáo chống phá sự nghiệp cách mạng của nhân dân, nhằm bảo vệ thành quả cách mạng, xây dựng xã hội mới. Giải quyết vấn đề này phải khẩn trương, kiên quyết, vừa thận trọng vừa có sách lược đúng đắn.
Năm là : Phải có quan điểm lịch sử khi giải quyết vấn đề tôn giáo.
Ở những thời kỳ lịch sử khác nhau, vai trò, tác động của từng tôn giáo đối với đời sống xã hội không giống nhau. Quan điểm, thái độ của các giáo hội, giáo sĩ, giáo dân về các lĩnh vực của đời sống xã hội cũng khác nhau. Vì vậy cần phải có quan điểm lịch sử cụ thể khi xem xét, đánh giá và ứng xử đối với những vấn đề có liên quan đến tôn giáo.
III.  VẤN ĐỀ TÔN GIÁO Ở VIỆT NAM VÀ CHÍNH SÁCH TÔN GIÁO CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC VIỆT NAM HIỆN NAY.
1. Đặc điểm, tình hình tôn giáo ở Việt Nam.
a.Đặc điểm tôn giáo ở Việt Nam:
Việt Nam là một nước có nhiều tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau. Có tôn giáo du nhập vào nước ta từ những thế kỷ đầu công nguyên, có tôn giáo mới ra đời ở Việt Nam vào đầu thế kỷ XX. Trong đó có sáu tôn giáo lớn với khoảng 20 triệu tín đồ da dược Nhà nước thừa nhận về tổ chức, đó là : Phật giáo, Công giáo, Tin lành, Cao đài, Hồi giáo và Hoà hảo. Bên cạnh đó, cịn hng chục triệu người khác vẫn giữ tín ngưỡng dân gian, truyền thống và cả tín ngưỡng nguyên thủy.
Các tôn giáo, tín ngưỡng dung hợp, dan xen và hịa đồng, không có kỳ thị, tranh chấp và xung đột tôn giáo. Sự phân bố tôn giáo ở Việt Nam có đặc điểm nổi bật là giáo dân của các tôn giáo thường sinh sống thành từng cộng đồng quy mô nhỏ, các cộng đồng tôn giáo khác nhau có thể sống xen kẻ.
Các tôn giáo chính có ảnh hưởng lớn trong x hội Việt Nam đều du nhập từ bên ngoài, ít nhiều đều có sự biến đổi và mang dấu ấn Việt Nam.
Sự pha trộn phức tạp giữa ý thức tơn gio với tín ngưỡng truyền thống và tình cảm, phong tục tập qun v nhn dn.
b.Tình hình tơn gio ở Việt Nam hiện nay :
Mặc dù sự hình thành và phạm vi ảnh hưởng, số lượng tín đồ và tác động chính trị- xã hội không giống nhau,  nhưng đồng bào các tôn giáo đã góp phần xứng đáng vào sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Những năm gần đây, sinh hoạt tôn giáo có phần phát triển, nhà thờ, đình cha, miếu mạo, thnh thất được tu sữa và tôn tạo, xây cất lại, in ấn tài liệu, đào tạo các chức sắc...số người tham gia các hoạt động tôn giáo gia tăng.
Thực trạng đó, một mặt phản ánh nhu cầu tinh thần của một số đông quần chúng nhân dân. Mặt khác cũng nói lên điều không bình thường vì trong đó không chỉ có sự sinh hoạt tôn giáo thuần túy, mà cịn biểu hiện lợi dụng tín ngưỡng tôn giáo để phục vụ cho mưu đồ chính trị và hoạt động mê tín dị đoan.
2. Quan điểm, chính sach tôn giáo của Đảng và Nhà nước Việt Nam hiện nay.
a) Quan điểm
Xuất phát từ những quan điểm chỉ đạo trong việc giải quyết  vấn đề tôn giáo dưới chủ nghĩa xã hội và tình hình tôn giáo ở Việt Nam, Nghị quyết Trung ương VII khoa IX về công tác tôn giáo đ chỉ r quan điểm lớn sau :
Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xy dựng CNXH ở nước ta.Đồng bào các tôn giáo là một bộ phận của khối đoàn kết toàn dân tộc.
Đảng, Nhà nước thực hiện nhất quán chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc.
Nội dung cốt li của cơng tc tơn gio l vận động quần chúng.
Công tác tôn giáo là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị.
b.Chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước Việt Nam hiện nay
Đại hội X của Đảng khẳng định : “ Đồng bào các tôn giáo là một bộ phận quan trọng của khối đại đoàn kết dân tộc.Thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo tôn gio của cơng dn,quyền sinh hoạt tơn gio bình thường theo pháp luật.Đoàn kết đồng bào theo các tôn giáo khác nhau, đồng bào theo tôn giáo và đồng bào không theo tôn giáo.Phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo.Động viên, giúp đỡ đồng bào theo đạo và các chức sắc tôn giáo sống “ tốt đời đẹp đạo”.Các tổ chức tôn giáo hợp pháp hoạt động theo pháp luật và được pháp luật bảo hộ.Đấu tranh ngăn chặn các hoạt động mê tín dị đoan, các hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo làm phương hại dđến lợi ích chung của đất` nước, vi phạm quyền tự do tôn giáo của công dân.”
Theo tinh thần đó, chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước Việt Nam trong giai đoạn hiện nay bao gồm:
- Thực hiện quyền tự do tín  ngưỡng và không tín ngưỡng của công dân trên cơ sở pháp luật.
- Tích cực vận động đồng bào các tôn giáo tăng cường đoàn kết toàn dân nhằm xây dựng cuộc sống “ tốt đời, đẹp đạo”, tích cực góp phần vào công cuộc đổi mới kinh tế xã hội, giữ vững ổn định về chính trị, trật tự và an toàn xã hội. Trên cơ sở đó chăm lo cải thiện đời sống vật chất  và văn hoá, nâng cao trình độ mọi mặt cho đồng bào.
- Hướng các chức sắc giáo hội hoạt động tôn giáo theo đúng pháp luật, ủng hộ các xu hướng tiến bộ trong các tôn giáo, làm cho các giáo hội ngày càng gắn bó với dân tộc và sự  nghiệp cách mạng của toàn dân, thể hiện rõ vai trò trách nhiệm của tôn giáo ở một quốc gia độc lập.
- Luôn luôn cảnh giác, kịp thời chống lại những âm mưu và thủ đoạn của  các thế lực thù địch lợi dụng tôn giáo chống lại sự nghiệp cách mạng của nhân dân, chống chủ nghĩa xã hội.
- Những quan hệ quốc tế và đối ngoại về tôn giáo hoặc có liên quan đến tôn giáo phải theo chế độ, chính sách chung về quan hệ quốc tế đối ngoại của Nhà nước.

CHƯƠNG  XI
VẤN ĐỀ GIA ĐÌNH TRONG QUA TRÌNH XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
I. VỊ TRÍ, CHỨC NĂNG CỦA GIA ĐÌNH TRONG XÃ HỘI
1. Quan niệm về gia đình.
a) Định nghĩa gia đình
Gia đình  là một trong những hình thức tổ chức cơ bản trong đời sống cộng đồng của con người, một thiết chế văn hóa - xã hội đặc thù, được hình thành, tồn tại và phát triển trên cơ sở của quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống, quan hệ nuôi dưỡng và giáo dục … giữa các thành viên.
Với tư cách là một hình thức cộng đồng tổ chức đời sống xã hội, gia đình được hình thành từ rất sớm và trải qua một quá trình phát triển lâu dài.
Lịch sử nhân loại đã trải qua nhiều hình thức gia đình: gia đình huyết tộc, gia đình đối ngẫu, gia đình một vợ một chồng …
b) Đặc trưng các mối quan hệ cơ bản của gia đình
- Hôn nhân và quan hệ hôn nhân là một quan hệ cơ bản của sự hình thành, tồn tại và phát triển gia đình.
Hôn nhân là một hình thức quan hệ tính giao giữa nam và nữ, nhằm thoả mãn nhu cầu tâm sinh lý, tình cảm và nhằm duy trì, phát triển nòi giống. Đây là  mối quan hệ cơ bản nhất của sự hình thành, tồn tại và phát triển gia đình. Cùng với sự phát triển lịch sử, hôn nhân có sự biến đổi về hình thức và tính chất.
Như mọi quan hệ xã hội khác, hôn nhân luôn chịu sự chi phối của quan hệ kinh tế và bản chất chế độ xã hội. Vì vậy, trong bất cứ thời đại nào hôn nhân cũng có thể và cần phải được xã hội thừa nhận. Cơ sở trực tiếp cho hôn nhân là tình yêu.
Tình yêu : Là sự phù hợp về tâm lý, sức khoẻ, trạng thái tình cảm và lối sống của hai người khác giới trước khi đi đến hôn nhân. Tuy nhiên,ở mỗi thời đại, mỗi giai cấp, mỗi dân tộc …tình yêu cũng có những chuẩn mực và biểu hiện riêng.
- Huyết thống, quan hệ huyết thống là quan hệ cơ bản đặc trưng của gia đình.
Quan hệ huyết thống là quan hệ giữa bố mẹ và con cái nhằm xác định vị trí của mỗi thành viên trong gia đình, trong thân tộc. Đây cũng là quan hệ cơ bản của gia đình.
Quan hệ huyết thống cũng có những thay đổi theo tiến trình lịch sử, cũng chịu sự chi phối của kinh tế, văn hoá của mỗi thời đại.
- Quan hệ quần tụ trong cùng một không gian sinh tồn.
Quan hệ quần tụ là quan hệ giữa các thành viên trong gia đình, trong một khoảng không gian nhất định, nhằm tạo điều kiện thuận lợi chăm sóc lẫn nhau để cùng tồn tại.
Ngay từ đầu, do yêu cầu tồn tại, các thành viên gia đình luôn sống quần tụ trong một không gian nhất định, lúc đầu là hốc cây, hang đá, sau là mái nhà.
Từ sự phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội nên không gian sinh tồn của con người có xu hướng mở rộng, song nhu cầu quần tụ của các thành viên trong gia đình vẫn luôn đặt ra.
Ngày nay, nhờ các thiết bị, phương tiện hiện đại nên mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình ngày càng được củng cố.
- Quan hệ nuôi dưỡng giữa các thành viên và thế hệ thành viên trong gia đình.
Quan hệ nuôi dưỡng là trách nhiệm chăm sóc, giúp đỡ lẫn nhau giữa các thành viên trong gia đình nhằm duy trì nòi giống và để cùng tồn tại. Đây là nghĩa vụ đồng thời còn là quyền lợi thiêng liêng của các thành viên trong gia đình lúc thuận lợi cũng như khi khó khăn.
Mặc dù xã hội phát triển, sự quan tâm của xã hội đối với gia đình và các thành viên gia đình qua các chính sách như: bảo hiểm, chăm sóc y tế, dưỡng lão… nhưng nuôi dưỡng của gia đình có những đặc thù mà xã hội dù có hiện đại đến đâu cũng không thể thay thế và càng không nên đặt vấn đề thay thế hoàn toàn.
2. Vị trí  gia đình trong xã hội.
a) Gia đình là tế bào xã hội.
Gia đình được coi là tế bào xã hội – một tổ chức nhỏ nhất hợp thành cơ thể sống của xã hội. Mỗi xã hội được hình thành, biến đổi trên cơ sở một phương thức sản xuất nhất định và có vai trò quy định đối với gia đình. Nhưng xã hội lại tồn tại thông qua sự tồn tại phát triển của gia đình. Gia đình hoà thuận, hạnh phúc thì cộng đồng xã hội sẽ vận động theo xu  hướng tích cực và ngược lại. Điều đó cho thấy giữa gia đình và xã hội có quan hệ mật thiết với nhau.
b) Trình độ phát triển kinh tế - xã hội quyết định quy mô, kết cấu, hình thức tổ chức và tính chất của gia đình.
Quan điểm duy vật về lịch sử đã chỉ ra rằng, gia đình là những hình thức phản ánh đặc thù của trình độ sản xuất, của trình độ phát triển kinh tế. Ngược lại, trình độ phát triển mọi mặt của xã hội quyết định sự biến đổi về hình thức, tính chất, kết cấu và quy mô của gia đình.
Trong tiến trình lịch sử nhân loại, sự ra đời và thay thế nhau của các phương thức sản xuất đã dẫn đến sự biến đổi về hình thức, tính chất, quy mô và kết cấu gia đình ( từ các gia đình tập thể – quần hôn đến gia đình cá thể , một vợ một chồng)
c) Gia đình là một thiết chế cơ sở, đặc thù của xã hội, là cầu nối giữa các thành viên gia đình với xã hội.
Trong hệ thống cơ cấu tổ chức của xã hội, gia đình được coi là thiết chế cơ sở đầu tiên, nhỏ nhất. Sự vận động, biến đổi của thiết chế tuân theo những quy luật chung của cả hệ thống.
Thông qua các hoạt động tổ chức đời sống của gia đình, mỗi cá nhân, mỗi gia đình tiếp  nhận, chịu sự tác động và “phản ứng” lại đối với những tác động của xã hội, thông qua các tổ chức, các thiết chế, chính sách… của xã hội.
d) Gia đình là tổ ấm mang lại các giá trị hạnh phúc, sự hài hoà trong đời sống cá nhân của mỗi thành viên, mỗi công dân của xã hội.
Sự yên ổn, hạnh phúc của mỗi gia đình là tiền đề, điều kiện quan trọng cho sự hình thành, phát triển nhân cách, bảo đảm đạt hiệu quả cho các hoạt động lao động của xã hội. Bởi lẽ, con người sinh ra, lớn lên và trưởng thành chủ yếu là thông qua gia đình và gắn bó với gia đình.
3.Các chức năng cơ bản của gia đình.
a) Chức năng tái sản xuất ra con người
Đây  là chức năng cơ bản và riêng có của gia đình. Chức năng này đáp ứng nhu cầu tình cảm riêng rất tự nhiên của cá nhân về sinh con đẻ cái, đồng thời nó còn cung cấp nguồn nhân lực mới, bảo đảm sự phát triển liên tục và trường tồn của xã hội loài người.
Chức năng này bao gồm các nội dung: tái sản xuất, duy trì nòi giống, nuôi dưỡng nâng cao thể lực trí lực bảo đảm tính sản xuất nguồn lao động và sức lao động cho xã hội.
b) Chức năng kinh tế và tổ chức đời sống gia đình
Hoạt động kinh tế và tổ chức đời sống vật chất là một chức năng cơ bản của gia đình. Hoạt động kinh tế hiểu theo nghĩa đầy đủ gồm các hoạt động sản xuất kinh doanh và hoạt động tiêu dùng để thoả mãn các nhu cầu ăn, mặc, ở, đi lại của mỗi thành viên và của gia đình.
Thực hiện tốt chức năng kinh tế sẽ tạo ra tiền đề và cơ sở vật chất vững chắc cho tổ chức đời sống của gia đình. Đương nhiên, ngoài cơ sở kinh tế, thì còn nhiều yếu tố khác đảm bảo cho một gia đình trở nên  văn minh, hạnh phúc.
c) Chức năng giáo dục của gia đình
Nội dung giáo dục gia đình bao hàm các yếu tố của văn hoá gia đình và văn hoá cộng đồng nhằm tạo lập và phát triển nhân cách của con người như: đạo đức, lối sống, ứng xử, tri thức lao động và khoa học…. Giáo dục gia đình được thực hiện ở mọi chu trình sống của con người với những nội dung hình thức giáo dục cụ thể, phong phú.
Giáo dục gia đình đã trở thành một bộ phận quan trọng của giáo dục xã hội. Kết hợp chặt chẽ các môi trường giáo dục ( gia đình – nhà trường – xã hội) để tiến tới mục tiêu nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho đất nước.
d) Chức năng thoả mãn các nhu cầu tâm - sinh lý, tình cảm
Đây là chức năng văn hoá - xã hội có vị trí đặc biệt quan trọng, bởi vì mỗi con người ở mỗi thời điểm phát triển đều có nhu cầu về tâm, sinh lý, tình cảm. Do đó chỉ trong môi trường gia đình thì mới được đáp ứng tốt nhất nhu cầu chính đáng này.
Khi những nhu cầu này được đáp ứng đầy đủ sẽ làm cho mỗi thành viên gia đình cảm thấy thoải mái về tinh thần, khoẻ mạnh về vật chất, đây là điều kiện tốt cho sự hình thành thái độ, hành vi tích cực của mỗi thành viên gia đình.
Trong gia đình, vai trò của người vợ, người phụ nữ đặc biệt quan trọng trong việc đáp ứng nhu cầu tinh thần của các thành viên. Họ đảm nhận và thực hiện những thiên chức không thể thay thế được. Do đó giải phóng phụ nữ là mục tiêu quan trọng của cách mạng xã hội chủ nghĩa và phải được bắt đầu từ gia đình.
II. ĐIỀU KIỆN XÂY DỰNG GIA ĐÌNH TRONG QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI.
1. Điều kiện kinh tế - xã hội.
Việc thủ tiêu chế độ bóc lột, việc xác lập, củng cố, hoàn thiện quan hệ sản xuất mới, việc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nền kinh tế quốc dân là yếu tố quan trọng để xoá bỏ cơ sở kinh tế của tình trạng bất bình đẳng về giới, bất bình đẳng giữa các thành viên trong gia đình.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, việc phát triển nền kinh tế thị trường  theo định hướng xã hội chủ nghĩa sẽ phát huy được mọi tiềm năng của mỗi thành viên, mỗi gia đình, đồng thời còn là tiền đề để thực hiện công bằng xã hội, xoá đói giảm nghèo, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho các thành viên trong gia đình.
2. Điều kiện, chính trị và văn hoá - xã hội.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa chú ý đến việc xây dựng, hoàn thiện và tổ chức hệ thống luật pháp, trong đó có Luật hôn nhân và gia đình, đây là cơ sở pháp lý cho quá trình thực hiện hôn nhân tự nguyện, tiến bộ,  một vợ một chồng, xây dựng gia đình bình đẳng,dân chủ, bảo đảm cuộc sống gia đình hạnh phúc và bền vững.
Trong quá trình xây dựng chủ  nghĩa xã hội, phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học - công nghệ sẽ tạo được nhiều cơ hội phát huy khả năng của mỗi công dân, mỗi thành viên trong gia đình.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa cũng chú trọng việc xây dựng, thực hiện các chính sách xã hội như: chính sách về dân số, việc làm, y tế, chăm sóc sức khoẻ, bảo hiểm …. Đây cũng là điều kiện quan trọng làm thay đổi về  hình thức tổ chức, quy mô, kết cấu gia đình theo hướng tích cực.
III. NHỮNG ĐỊNH HƯỚNG CƠ BẢN VÀ NỘI DUNG XÂY DỰNG GIA ĐÌNH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY.
1. Những định hướng cơ bản để xây dựng gia đình mới ở nước ta hiện nay
a) Xây dựng gia đình mới ở nước ta hiện nay phải trên cở sở kế thừa, phát huy những giá trị tốt đẹp của gia đình truyền thống, đồng thời tiếp thu những giá trị tiến bộ của thời đại về gia đình.
Khi xây dựng gia đình mới ở Việt Nam cần thừa kế, phát huy những giá trị tốt đẹp của gia đình truyền thống Việt Nam như : sự cố kết chặt chẽ giữa các thành viên trong gia đình, tình làng nghĩa xóm, tình yêu gia đình gắn liền với tình yêu dân tộc. Đồng thời cũng cần loại bỏ  những giá trị không còn phù hợp như: tính cục bộ theo họ tộc, địa phương, nghi lễ cưới hỏi, ma chay rườm rà tốn kém; sự bất bình đẳng về giới và bất bình đẳng giữa các thế hệ….
Trong điều kiện ngày nay, để xây dựng được gia đình mới ở nước ta cần  phải biết tiếp thu có chọn lọc những giá trị tiến bộ của thời đại về gia đình như : gia đình ít con, dân chủ, bình đẳng, năng động…
b) Xây dựng gia đình mới ở nước ta hiện nay phải thực hiện trên cơ sở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, bảo đảm quyền tự do được kết hôn và ly hôn.
Gia đình phải được hình thành trên cơ sở tình yêu chân chính giữa nam và nữ. Tình yêu chân chính là quan hệ tình cảm nảy sinh trong quá trình gặp gỡ, hiểu biết và cảm thông với nhau, tìm thấy ở nhau những điểm tương đồng, mong muốn được chia sẻ khó khăn, sẵn sàng cùng nhau xây dựng cuộc sống chung, không thể thiếu nhau.
Hôn nhân tự nguyện tiến bộ là bước phát triển tự nhiên của tình yêu chân chính. Từ yêu thương họ thực sự tự nguyện đến với nhau, được pháp luật thừa nhận và bảo vệ. Hôn nhân tự nguyện không bác bỏ sự quan tâm, hướng dẫn của cha mẹ, chính sự quan tâm đúng mức  của cha  mẹ giúp cho con cái  có trách nhiệm hơn, sống đúng mực hơn trong quan hệ gia đình.
Hôn nhân tự nguyện, tiến bộ còn bao hàm cả quyền tự do ly hôn. Bởi vì nếu tự do kết hôn được xây dựng trên tình yêu chân chính thì khi tình yêu chân chính thực sự không còn nữa thì ly hôn là điều tất yếu.
Tuy nhiên cần có quan niệm đúng đắn về tình yêu chân chính. Nó không chỉ  là quan hệ tình cảm giữa vợ và chồng mà còn bao hàm cả nghĩa vụ, trách nhiệm với nhau, và với các thành viên trong gia đình.
Ly hôn bao giờ cũng để lại những hậu quả xấu, vì vậy cần phải có sự hoà giải của đoàn thể,cộng đồng, làng xóm và cần có sự đảm bảo về mặt pháp lý.
Hôn nhân tiến bộ là hôn nhân một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng.
c) Xây dựng gia đình mới ở Việt Nam phải trên cơ sở các quan hệ bình đẳng, thương yêu, có trách nhiệm cùng chia sẻ, gánh vác công việc của các thành viên để thực hiện các chức năng cơ bản của gia đình và nghĩa vụ xã hội.
Trong quan hệ gia đình thì quan hệ giữa vợ – chồng, quan hệ giữa bố mẹ – con cái là hai quan hệ cơ bản nhất. Để từng bước xây dựng được gia đình mới thì phải chú ý đến quan hệ bình đẳng giữa vợ và chồng.
Xã hội cần có nhiều giải pháp và cả chính sách về kinh tế, văn hoá, giáo dục… để tạo ra và củng cố quan hệ bình đẳng giữa vợ và chồng trong việc tham gia quyết định các vấn đề trọng đại trong gia đình.
Cùng với việc xây dựng quan hệ bình đẳng giữa vợ chồng, phải chú ý đến việc xây dựng quan hệ tốt đẹp  giữa bố mẹ và con cái, giữa anh, chị, em ruột và quan hệ giữa ông bà và các cháu. Nhà nước cần có chính sách phát triển kinh tế, xã hội, văn hoá, giáo dục, tuyên truyền vận động… để tác động làm cho các mối quan hệ này phù hợp với đặc điểm, truyền thống của dân tộc và yêu cầu mới của xã hội.
d) Xây dựng gia đình mới ở Việt Nam hiện nay phải gắn liền với việc hình thành và xác lập, củng cố từng bước các quan hệ gắn bó với cộng đồng, với các thiết chế, tổ chức ngoài gia đình.
Khi xây dựng gia đình mới, cần trân trọng gìn giữ, phát huy những yếu tố tích cực của gia đình truyền thống( phong tục, tập quán tiến bộ …). Phải gắn kết gia đình với cộng đồng và các thiết chế, tổ chức ngoài gia đình( quy chế dân chủ, quy ước cộng đồng …)
2. Một số nội dung chủ yếu để xây dựng gia đình ở Việt Nam hiện nay.
a) Mỗi địa phương, vùng lãnh thổ, thành phần dân tộc cần vận dụng sáng tạo những định hướng cơ bản trong việc xây dựng gia đình, phải cụ thể hoá thành những tiêu chí cho phù hợp với hoàn cảnh lịch sử của địa phương, gia đình. Cần rút kinh nghiệm sau mỗi thời kỳ, mỗi phong trào xây dựng gia đình.
b) Nội dung cơ bản, trực tiếp của việc xây dựng gia đình ở nước ta hiện nay  là xây dựng gia đình ấm no, bình đẳng, hạnh phúc và tiến bộ. Trong gia đình cần chú trọng xây dựng quan hệ dân chủ, bình đẳng giữa các thành viên, nhất là quan hệ nam nữ, quan hệ giữa bố mẹ con cái, tạo nên sự hoà thuận,nền nếp, kỷ cương trong gia đình.
Gia đình hạnh phúc còn bao hàm những nét đẹp trong đời sống văn hoá tinh thần mỗi gia đình, trong mối quan hệ giữa gia đình với cộng đồng xã hội.
c) Cần giải quyết tốt ngay từ đầu mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với việc giải quyết và thực hiện công bằng xã hội. Đồng thời nhà nước cần có các chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế nhằm giải quyết tốt các vấn đề xã hội, trong đó có xây dựng gia đình ấm no, hạnh phúc. Ngược lại, xây dựng gia đình mới cần gắn bó với chiến lược phát triển kinh tế  xã hội.
d) Trong điều kiện hiện nay, cần quan tâm đến chính sách nhằm giải phóng phụ nữ, phát huy vai trò của phụ nữ trong gia đình và xã hội. Hạn chế, tiến tới đẩy lùi các tiêu cực trong kinh tế, văn hoá, xã hội, đạo đức, lối sống.
e) Cần tăng cường công tác nghiên cứu khoa học nhằm giải quyết những vấn đề nảy sinh liên quan đến hôn nhân, gia đình. Cần nghiên cứu về gia đình truyền thống và gia đình hiện đại để kế thừa những giá trị tiến bộ; nghiên cứu sự chuyển đổi giá trị từ gia đình truyền thống sang gia đình hiện đại cho phù hợp với sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá và toàn bộ công cuộc đổi mới.

CHƯƠNG XII
VẤN ĐỀ NGUỒN LỰC CON NGƯỜI TRONG
QUÁ TRÌNH  XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI

I. NGUỒN LỰC CON NGƯỜI VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ TRONG SỰ NGHIỆP XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
1. Con người và nguồn lực con người
a) Quan niệm của chủ nghĩa Mác – Lênin về con người va con người xã hội chủ nghĩa
* Quan niệm về con người:
Thời kỳ cổ đại người ta cho rằng, con người cũng như các sinh thể vật chất khác đều do những nguyên tố cụ thể nào đó tạo ra như: nước, lửa, không khí, v.v. (phương Tây) hay sự kết hợp các vật thể: kim, mộc, thủy, hỏa. Thổ (phương Đông).
Thời kỳ trung cổ người ta cho rằng, con người do một lực lượng siêu nhiên tạo ra: Đạo thiên chúa cho rằng con người do Chúa tạo ra, hay Nho giáo cho rằng Trời sinh ra con người,v.v
Chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng, con người vừa là thực thể tự nhiên, vừa là thực thể xã hội, đồng thời là chủ thể cải tạo hoàn cảnh.
Con người là một thực thể sống, có quá trình trao đổi chất với môi trường xung quanh, có tâm sinh lý, có những nhu cầu vật chất nhất định.
Con người trong quá trình tồn tại không chỉ tác động vào tự nhiên, làm biến đổi thế giới tự nhiên mà con người còn quan hệ với nhau tạo nên bản  chất người, làm cho con người khác với con vật “Bản chất con người không phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã hội”[1]
Con người không thể tồn tại được một khi tách ra khỏi xã hội. Xã hội càng phát triển, con người càng hòa vào trong cộng đồng xã hội, mối quan hệ giữa con người với con người ngày càng bền chặt hơn, con người được mở rộng mối quan hệ với xã hội.
Quan hệ giữa cá nhân con người với xã hội là quan hệ thường xuyên và có sự thống nhất biện chứng với nhau.
Do vậy, để cho con người ngày càng phát triển cần phải mở rộng những quan hệ xã hội, làm cho xã hội ngày càng phát triển, tạo điều kiện chăm sóc con người ngày một tốt hơn.
* Quan niệm về con người xã hội chủ nghĩa:
Con người xã hội chủ nghĩa bao gồm cả những con người từ xã hội cũ để lại và cả những con người sinh ra trong xã hội mới. Con người sống dưới chế độ xã hội chủ nghĩa mang những nét đặc trưng của chủ nghĩa xã hội, song vẫn còn chịu ảnh hưởng không ít những tư tưởng, tác phong, thói quen của xã hội cũ. Cho nên, quá trình xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa là quá trình diễn ra cuộc đấu tranh gay go, quyết liệt giữa cái cũ và cái mới, cái tiến bộ và cái lạc hậu.
Con người xã hội chủ nghĩa vừa là chủ thể trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, vừa là sản phẩm của quá trình đó.
Mỗi thời kỳ lịch sử, trên cơ sở của sự phát triển lực lượng sản xuất, của trình độ phát triển xã hội, cần phải xác định mô hình con người cần xây dựng.
Dựa trên  lý  luận chủ nghĩa Mác  Lênin, tiếp thu những giá trị truyền thống của dân tộc, căn cứ vào điều kiện  cụ thể của Việt Nam, những đặc trưng con người xã  hội chủ nghĩa mà chúng ta phấn đấu xây dựng là:
+ Con người xã hội chủ nghĩa là con người có ý thức trình độ và năng lực làm chủ.
+ Con người xã hội chủ nghĩa là con người lao động mới, có ý thức sâu  sắc về công việc mà mình đang đảm nhận, lao động có ý thức kỷ luật, có tinh thần hợp tác với đồng nghiệp, biết đánh giá chất lượng lao động, hiệu quả lao động của bản thân.
+ Con người xã hội chủ nghĩa là con người sống có văn hoá, có tình nghĩa với anh em, bạn bè, mọi người xung quanh, biết được vị trí của mình trong từng mối quan hệ xã hội và giải quyết đúng đắn được những mối quan hệ đó; thường xuyên có ý thức nâng cao trình độ tri thức về mọi mặt, ra sức rèn luyện sức khoẻ, đảm bảo phát triển toàn diện cá nhân.
+ Con người xã hội chủ nghĩa là con người giàu lòng yêu nước, thương dân, có tình thương yêu giai cấp, thương yêu đồng loại, sống nhân văn, nhân đạo, có ý thức và kiên quyết đấu tranh bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ những thành quả cách mạng; kiên quyết đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu chống phá của kẻ thù.
b) Nguồn lực con người
Nguồn lực con người là tổng thể những yếu tố thuộc về thể chất, tinh thần, đạo đức, phẩm chất, trình độ tri thức, vị thế xã hội, v.v tạo nên năng lực của con người, của cộng đồng người có thể sử dụng, phát huy trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và trong những hoạt động xã hội.
Nói tới nguồn lực con người là nói tới số lượng và chất lượng nguồn nhân lực.
Số lượng nguồn nhân lực được xác định trên quy mô dân số, cơ cấu độ tuổi,  sự tiếp nối các thế hệ, giới tính và sự phân bố dân cư giữa các vùng, các miền của đất nước, giữa các ngành kinh tế, giữa các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Chất lượng nguồn nhân lực là một khái niệm tổng hợp bao gồm những nét đặc trưng về thể lực, tay nghề, năng lực quản lý, mức độ thành thạo trong công việc, phẩm chất đạo đức, tình yêu quê hương đất nước, ý thức giai cấp, ý thức về trách nhiệm cá nhân với công  việc, với gia đình và xã hội, giác ngộ và bản lĩnh chính trị,v.v.
Số lượng và chất lượng nguồn nhân lực có quan hệ với nhau một cách chặt chẽ.
Xã hội muốn phát triển nhanh và bền vững phải quan tâm đào tạo nguồn lực con người có chất lượng ngày càng cao. Muốn thực hiện được điều đó, cần có sự quan tâm ngay trong quá trình đào tạo, trong quá trình sử dụng và phân công lao động xã hội.
2. Vai trò của nguồn lực con người trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa  xã hội.
a) Vai trò nguồn lực con người trong lĩnh vực kinh tế:
Trong lĩnh vực kinh tế, cần xem xét con người với tư cách là lực lượng sản xuất trực tiếp và có vai trò rất quan trọng trong quan hệ sản xuất.
Trong bất cứ xã hội nào, người lao động cũng là yếu tố quan trọng nhất trong lực lượng sản xuất. Ngày nay, khoa học  công nghệ ngày càng phát triển, hàm lượng chất xám trong giá trị hàng hóa ngày càng cao, thì vai trò của người lao động sản xuất có trí tuệ lại càng quan trọng trong lực lượng sản xuất.
Con người khi được làm chủ những tư  liệu sản xuất, được đào tạo một cách chu đáo những  kiến thức quản lý kinh tế sẽ có điều kiện khai thác một cách có hiệu quả tiềm năng đất đai, biết kết hợp các yếu tố của quá trình sản xuất như huy động vốn, động viên khuyến khích người người lao động làm việc có hiệu quả, quản lý chặt chẽ nguyên liệu vật tư, do vậy, hiệu quả sản xuất kinh doanh sẽ tốt hơn. Ngày nay vai trò người quản lý trong sản xuất kinh doanh ngày càng trở nên quan trọng, do vậy, các quốc gia thường rất quan tâm tới đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ này.
b) Vai trò  nguồn lực con người trong lĩnh vực chính trị:
Xét nguồn lực con người trên phương diện chính trị, khi mà người dân có tri thức, có năng lực, thấy được trách nhiệm của mình trong việc lựa chọn những người có đức có tài vào các cơ quan nhà nước sẽ góp phần xây dựng nhà nước vững mạnh.
Cán bộ nhà nước có hiểu biết lý luận, hiểu biết thực tiễn, thấy được trách nhiệm của mình  đối với nhân dân, sẽ hết lòng phụng sự  nhân dân và thực sự tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân sẽ được dân mến, dân tin, dân ủng hộ.
Cán bộ tích cực tuyên truyền đường lối của đảng, phổ biến luật pháp của nhà nước đến nhân dân, làm cho dân hiểu, dân tin; người  dân chủ động tích cực thực hiện đường lối đó, có ý thức tôn trọng luật pháp, thực hiện những nghĩa vụ công dân, hiểu rõ quyền lợi của mình, kiên quyết đấu tranh với những hiện tượng tiêu cực trong xã hội sẽ làm tăng sức mạnh của nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Có thể khẳng định, nguồn  lực con người là yếu tố quan trọng trong việc xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa, nhà nước của dân, do dân, vì dân; trong quá trình đấu tranh bảo vệ những thành quả cách mạng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa; đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu phá hoại của kẻ thù.
c) Vai trò nguồn lực con người trong lĩnh vực  văn hóa:
Dưới chủ nghĩa xã hội, nhân dân lao động được trở thành người làm chủ trong đời sống văn hóa xã hội.
Mặt khác, quần chúng nhân dân lao động cũng là những người góp phần xây dựng nên những công trình văn hóa, những người sáng tạo ra các tác phẩm nghệ thuật.
Con người có tri thức, có hiểu biết về các hình thức nghệ thuật, sẽ tham gia sáng tạo ra những tác phẩm nghệ thuật có giá trị cao. Những công trình văn hóa, nghệ thuật như vậy có tác dụng giáo dục đạo đức, góp phần hình thành nhân cách cho mỗi con người trong xã hội.
Con người có văn hóa cũng là những người có nghĩa vụ bảo tồn những di sản văn hóa tinh thần của đất nước, của nhân loại.
Trong điều kiện giao lưu quốc tế ngày càng mở rộng, con người có điều kiện tiếp cận với nền văn hóa nhiều nước trên thế giới. Trình độ tri thức của mỗi người về văn hóa sẽ là tiền đề cho họ tiếp nhận những giá trị tốt đẹp của dân tộc khác, loại bỏ những yếu tố không phù hợp để làm giàu cho nền văn hóa dân tộc mình, làm phong phú đời sống tinh thần cá nhân.
Con người có tri thức khoa học, có năng lực nghiên cứu tạo ra những khả năng cho họ có những đóng góp xứng đáng trong sự phát triển khoa học của đất nước.
d) Vai tro của nguồn lực con người trong lĩnh vực x hội :
Lĩnh vực x hội bao gồm cc vấn đề: vấn đề lao động việc làm, thực hiện công bằng x hội, thực hiện xĩa đói, giảm nghèo. v.v.
Để giải quyết tốt những vấn đề này, địi hỏi phải pht huy tốt vai trị nguồn lực con người.
Giải quyết lao động việc làm là một vấn đề được từng gia đình, tồn x hội quan tm, bởi lẽ, cĩ giải quyết tốt vấn đề lao động, vieäc làm mới phát huy được thế mạnh của đất nước, mới giải quyết tốt được những vấn đề x hội khc. Song, để giải quyết tốt vấn để lao động việc làm, địi hỏi phi nng cao chất lượng nguồn lực con người từ: sức khỏe, trình độ học vấn, tay nghề, ý thức chính trị, năng lực quản lý cho người lao động.
Hiện nay, chính sách xóa đói giảm nghèo là một chính sách lớn của Đảng và Nhà nước ta. Chính sách này chỉ được phát huy hiệu quả khi chính những người nghèo thấy được trách nhiệm của mình, cố gắng nổ lực phấn đấu vươn lên, đồn g thời được sự đồng tình ủng hộ của tồn x hội, sự trợ gip của Nh nước. v.v.
           Như vậy, con người không chỉ là chủ thể của hoạt động  sản xuất vật chất, mà còn là chủ thể của quá trình sản xuất tinh thần của xã hội.
Nhưng hiệu quả việc phát huy nguồn lực con người lại tuỳ thuộc vào chế độ xã hội, tuỳ thuộc vào cách tổ chức xã hội, phụ thuộc vào năng lực và nghệ thuật của người quản lý xã hội, phụ thuộc vào cơ chế và chính sách xã hội.
II. PHÁT HUY NGUỒN LỰC CON NGƯỜI Ở VIỆT NAM
1. Phát huy nguồn lực con người Việt Nam những năm qua
a) Những kết quả đạt được:
Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, những người dân Việt Nam từ  địa vị những người bị mất nước, người dân nô lệ trở thành những người làm chủ đất nước.
Những năm qua, kinh tế-xã hội Việt Nam ngày càng phát triển, năng suất lao động ngày càng cao, đã tạo điều kiện cải thiện đáng kể đời sống nhân dân, giúp cho việc chăm sóc con người ngày một tốt hơn. Đảng và Nhà nước ta đã tạo những điều kiện thuận lợi cho mọi người dân tham gia đóng góp ý kiến trong quá trình xây dựng chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước cũng như kế hoạch phát triển kinh tế  của từng địa phương, từng cơ sở sản xuất kinh doanh.
Việt Nam đã quan tâm tới giáo dục đào tạo, trình độ dân trí đã có tiến bộ nhiều so với trước đây. Nhiều tỉnh đã thực hiện xóa nạn mù chữ, phổ cập tiểu học hay trung học phổ thông cơ sở. Hiện nay ngân sách nhà nước đầu tư cho giáo dục năm sau cao hơn năm trước. Giáo dục miền núi, vùng sâu, vùng xa được quan tâm ngày một tốt hơn.
Việc chăm sóc sức khoẻ cho các tầng lớn nhân dân đã được quan tâm. Những cơ sở khám chữa bệnh được xây dựng tới tận các xã, kể cả vùng sâu, vùng xa. Tuổi thọ trung  bình của người Việt Nam đã tăng lên nhiều so với trước đây. Thể lực của người Việt Nam đã được cải thiện hơn trước. Trang thiết bị trong các bệnh viện, trong các cơ sở khám chữa bệnh ngày một đầy đủ, ngày một hiện đại.
Do trình độ học vấn của người Việt Nam được nâng lên, quan hệ xã hội, giao lưu quốc tế ngày càng mở rộng, cho nên, tính tích cực xã hội, tính tự chủ, sự năng động sáng tạo của người Việt Nam đã được nâng lên so với trước đây.
Nhìn chung, trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã chăm lo tới việc bồi dưỡng nguồn nhân lực của đất nước cả sức khoẻ, tri thức, năng lực, phẩm chất đạo đức; tạo điều kiện cho mỗi người phát huy được khả năng của mình đóng góp cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã  hội chủ nghĩa.
b) Những hạn chế của việc phát huy nguồn lực con người ở Việt Nam:
Do có lúc tuyệt đối hóa tính xã hội của con người nên dẫn tới việc coi nhẹ mặt tự nhiên, không quan tâm đúng mức tới nhu cầu vật chất, chưa thực sự chú ý tới lợi ích cá nhân người lao động; có lúc, có nơi đã đồng nhất lợi ích cá nhân với chủ nghĩa cá nhân, nên không phát huy mạnh mẽ được tính tích cực xã hội của người lao động; vai trò của cá nhân bị lu mờ; tài năng cá nhân không được khuyến khích.
Có những thời kỳ chúng ta hiểu chưa thực sự đúng đắn chủ nghĩa Mác-Lênin, đi đến đề cao quá mức tính giai cấp, coi nhẹ tính nhân loại, không chú ý kế thừa những giá trị truyền thống dân tộc; chưa làm theo đúng tính quy luật mà chủ nghĩa Mác - Lênin đã chỉ ra: chủ nghĩa xã hội là sự tiếp nối quá trình phát triển của nhân loại, phải biết tiếp thu những di sản của quá khứ một cách chọn lọc, nâng lên tầm cao mới.
Quá nhấn mạnh tính giai cấp không chú ý kế thừa những giá trị của nhân loại. Nhiều gia đình ít chú ý tới giáo dục gia phong, gia lễ cho con cái. Điều đó là nguyên nhân tạo ra những khiếm khuyết về nhân cách trong một bộ phận thanh niên hiện nay.
Tình trạng quan liêu trong bộ máy Nhà nước, một bộ phận cán bộ tham nhũng cửa quyền, vi phạm quyền tự do dân chủ của công dân; không ít kẻ cơ hội, hữu khuynh chui vào tổ chức đảng, cơ quan nhà nước gây ra  những tác động xấu đang làm xói mòn lòng tin của quần chúng đối với Đảng và Nhà nước ta.
Trong giáo dục và đào tạo, phương pháp giáo dục còn chưa kích thích được tính sáng tạo của người học, chưa thực sự gắn kết lý luận với thực tiễn cuộc sống. Cơ cấu đào tạo giữa các ngành, giữa các bậc học chưa hợp lý, do vậy dẫn tới tình trạng vừa thừa, vừa thiếu cán bộ hiện nay. Nhìn chung việc đào tạo và sử dụng cán bộ ở nước ta còn nhiều bất cập.
Những hạn chế trong việc xây dựng, bồi dưỡng, phát huy nguồn lực con người Việt Nam trong thời gian qua do những nguyên nhân sau:
Thứ nhất: Nước ta là một nước nông nghiệp lạc hậu đi lên chủ nghĩa xã hội, năng suất lao động còn rất thấp, đời sống của nhân dân còn nhiều khó khăn, do vậy, việc chăm sóc đầy đủ, đảm bảo những điều kiện cho con người phát triển toàn diện còn hạn chế.
Thứ hai: Việt Nam trải qua nhiều năm chiến tranh, không có điều kiện chăm sóc cho con người. Hiện nay hậu quả chiến tranh để lại còn rất nặng nề đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân phải tiếp tục khắc phục.
Thứ ba: Những ảnh hưởng của phong tục tập quán, thói quen của người sản xuất nhỏ như: thiếu ý thức tổ chức kỷ luật, cách nhìn thiển cận, tâm lý tự ty, tính vị kỷ, cục bộ địa phương, kể cả tác phong gia trưởng trong giáo dục và đánh giá mỗi con người,v.v
Thứ tư : Trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường, mở rộng giao lưu quốc tế, một mặt cũng tạo ra những tác động tích cực, nhưng mặt khác cũng đang tạo ra những ảnh hưởng tiêu cực như: lối sống thực dụng, chỉ vì chức, vì quyền, vì tiền mà không ít người có thể làm những việc bất chấp luân thường đạo lý. Điều đó gây ra những tác động xấu trong xã hội.
Thứ năm: Sự đầu tư cho giáo dục đào tạo còn hạn chế, “công tác quản lý giáo dục  đào tạo có những mặt yếu kém bất cập”.Tình trạng tiêu cực trong giáo dục còn đang phổ biến ở nhiều nơi, chất lượng giáo viên còn hạn chế. Những điều đó đang ảnh hưởng tới chất lượng đào tạo,  trực tiếp ảnh hưởng tới việc phát huy nguồn nhân lực trong giai đoạn hiện nay.
Thứ sáu: Những yếu kém trong quản lý nhà nước, hệ thống luật pháp chưa đồng bộ, tính gia trưởng, sự bảo thủ trong một số cán bộ có chức có quyền, tâm lý đố kỵ, ghen ghét với những người có năng lực của một số người đang hạn chế phát huy nguồn nhân lực ở nước ta hiện nay.
2. Những phương hướng và giải pháp phát huy nguồn lực con người ở Việt Nam hiện nay.
a) Những phương hướng:
Thứ nhất: Đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển nền kinh tế đất nước.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá với nội dung chuyển lao động thủ công sang lao động cơ khí máy móc, vừa tạo ra những điều kiện để nâng cao mức sống nhân dân, tạo điều kiện cho xã hội và gia đình quan tâm tới giáo dục nhiều hơn. Đồng thời công nghiệp hoá, hiện đại hoá cũng đặt ra những yêu cầu, những thách thức buộc người lao động phải phấn đấu vươn lên, nếu họ không muốn bị thải loại khỏi dây chuyền sản xuất.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vừa là điều kiện để xây dựng, bồi dưỡng phát huy nguồn lực con người, đồng thời đến lượt nó phát huy nguồn lực con người lại là yêu  cầu quyết định thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Thứ hai: Xây dựng và từng bước hoàn chỉnh một hệ thống chính sách xã hội phù hợp.
Chính sách xã hội là một bộ phận hợp thành chính sách của Đảng Cộng sản và Nhà nước xã hội chủ nghĩa, là sự thể hiện lý tưởng chính trị, cương lĩnh, đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản, trong hệ thống pháp luật của Nhà nước xã hội chủ nghĩa và thể hiện  bằng quá trình tổ chức thực tiễn trong cuộc sống của toàn xã hội.
Chính sách xã hội là những chính sách trực tiếp đảm bảo những nhu cầu vật chất và tinh thần của con người biểu hiện rõ nhất bản chất của một chế độ xã hội; đó là những chính sách điều chỉnh các mối quan hệ xã hội; và là một trong những động lực trực tiếp để con người hoạt động trên lĩnh vực xã hội.
Phát triển kinh tế, nâng cao năng suất lao động là tiền đề, là điều kiện cho việc thực hiện chính sách xã hội.
Thực hiện tốt chính sách xã hội, thực hiện công bằng trong phân phối, chăm lo tới người lao động, tạo điều kiện cho người lao động học tập phấn đấu vươn lên, cống hiến hết sức mình cho xã hội sẽ góp phần to lớn phát triển kinh tế của đất nước.
Chính sách xã hội dưới chủ nghĩa xã hội phải hướng tới con người và vì con người. Để thực hiện điều đó, cần phải đảm bảo “tăng trưởng kinh tế phải gắn  với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và trong suốt quá trình phát triển”, gắn đời sống vật chất với đời sống tinh thần.
Thứ ba: Từng bước xây dựng và không ngừng hoàn thiện cơ chế quản lý của chế độ xã hội chủ nghĩa
Cơ chế quản lý của một xã hội là toàn bộ những thiết chế, những quy định về mối quan hệ trách nhiệm, quyền hạn giữa cá nhân với tổ chức, giữa tổ chức với tổ chức nhằm thực hiện mục đích quản lý xã hội theo một định hướng nhất định của giai cấp cầm quyền.
Chế độ xã hội chủ nghĩa là chế độ xã hội do nhân dân lao động làm chủ trong tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa tư tưởng,..Do vậy, xã hội phải tạo ra những điều kiện cho người lao động tham gia tích cực vào công việc quản lý xã hội, quản lý kinh tế, quản lý nhà nước, thông qua đó mà họ tích cực đóng góp tài năng, trí tuệ cho xã hội.
Thứ tư : Thực hiện cuộc cách mạng x hội chủ nghĩa trn lĩnh vực tư tưởng văn hóa
Nguồn lực con người là sự kết hợp các yếu tố trong con người mà chúng ta có thể phát huy, từ sức khỏe tới trí tuệ, tri thức, tình yu qu hương, đất nước.v.v.
Do vậy, để bồi dưỡng, phát triển và phát huy tốt hơn nguồn lực con người trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN, cần tiếp tục thực hiện tốt hơn nữa cuộc cách mạng XHCN trên lĩnh vực tư tưởng và văn hóa.Bởi lẽ, cuộc cách mạng này có nhiệm vụ trang bị lý luận Chủ nghĩa Mc-Lnin , tư tưởng Hồ Chí Minh cho nhân dân lao động.
b) Một số giải pháp phát huy nguồn lực con người ở Việt Nam hiện nay
Thứ nhất: Trong lĩnh vực kinh tế
Phải nâng cao vị thế của người lao động trong quá trình sản xuất. Cần nhanh chóng khắc phục tình trạng tách người lao động ra khỏi tư liệu sản xuất. Thực hiện giao đất, giao rừng cho nông dân, tạo điều kiện cho mọi người dân làm chủ cụ thể những tư  liệu sản xuất của toàn xã hội, ở mọi thành phần kinh tế.
Huy động rộng rãi nhân dân đóng góp ý kiến xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội của đất nước, của địa phương, đóng góp ý kiến xây dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, của đơn vị.
Phát huy sáng kiến của người lao động, chăm lo đời sống vật chất tinh thần của họ, thực hiện phân phối công bằng, công khai, dân chủ.
Động viên mọi người dân bỏ vốn ra sản xuất kinh doanh, khai thác thế mạnh của các địa phương, phát triển ngành nghề truyền thống, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Tăng cường giáo dục đạo đức, khơi dậy lương tâm nghề nghiệp, nêu cao trách nhiệm của mỗi người trong hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ. Phê phán thói lười biếng, làm bừa, làm ẩu; ngăn chặn làm ăn phi pháp, phi đạo lý.
Thứ hai: Trong lĩnh vực chính trị
Nâng cao trình độ của cán bộ, đảng viên và nhân dân về nhận thức chính trị (chủ nghĩa Mác Lênin, tư  tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng ta), về pháp luật, về Nhà nước của dân, do dân, vì dân, từ đó nâng cao trách nhiệm và năng lực của họ tích cực tham gia vào công việc của Đảng,Nhà nước  và hệ thống chính trị của nước  ta. 
Tăng cường vai trò kiểm tra giám sát của quần chúng nhân dân trong mọi hoạt động của bộ máy nhà nước, thực hiện dân chủ hóa đời sống xã hội, huy động đông đảo quần chúng nhân dân tham gia vào cuộc đấu tranh chống tham nhũng.
Xây dựng cơ chế quản lý xã hội, quản lý nhà nước để người dân có điều kiện tham gia công việc Nhà nước, công việc xã hội, thực sự là người làm chủ đất nước; khắc phục tình trạng trì trệ, bảo thủ trong một số cơ quan nhà nước.
Phân rõ trách nhiệm của từng cấp, từng ngành, từng tập thể, từng cá nhân trong từng công việc, khắc phục tình trạng chồng chéo, hay buông lỏng quản lý nhà nước trong một số ngành, một số địa phương.
Giáo dục tinh thần yêu nước, nâng cao ý thức tự cường dân tộc, trách nhiệm công dân, bản lĩnh chính trị của mỗi người dân. Kiên quyết đấu tranh với những hiện tượng tiêu cực, tình trạng vi phạm kỷ cương, phép nước và những âm mưu chống phá của kẻ thù, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ thành quả cách mạng.
Thứ ba: Trên lĩnh vực xã hội
Từng bước khắc phục đi tới loại bỏ những phong tục tập quán lạc hậu, những quan hệ không bình đẳng, xây dựng quan hệ mới giữa người với người trên tinh thần tương trợ giúp đỡ lẫn nhau trong sản xuất kinh doanh, trong đời sống xã hội. Xây dựng quan hệ bình đẳng hữu nghị giúp đỡ lẫn nhau giữa các dân tộc, giữa các quốc gia.
Cần thực hiện biệp pháp làm giảm dần khoảng cách chênh lệch giữa các tầng lớp dân cư, giữa các vùng lãnh thổ. Quan tâm tới những hộ nghèo, những gia đình khó khăn, những hộ chính sách xã hội, những vùng sâu, vùng xa tạo ra cơ hội phát triển cho mọi người, làm cho mọi người dân đều được hưởng những thành quả y tế, giáo dục, văn hóa,…
Thực hiện chính sách xóa đói, giảm nghèo; tập trung giải quyết những vấn đề cấp bách về lao động việc làm; trên cơ sở đó; người lao động mới có điều kiện nâng cao trình độ tri thức, trình độ tay nghề, mới có môi trường rèn luyện phấn đấu, cống hiến sức mình cho đất nước, cho xã hội.
Thứ tư: Trên lĩnh vực giáo dục và đào tạo
“Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài” cho đất nước, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay.
Đảng, Nhà nước, các tổ chức đảng, các cấp chính quyền, các tổ chức chính trị xã hội và từng gia đình đều phải quan tâm tới giáo dục và đào tạo.
Để đào tạo ra những cán bộ vừa “hồng” vừa “chuyên” có ý thức và năng lực làm chủ đất nước, làm chủ xã hội. Nội dung giáo dục phải phản ánh được những tri thức quan trọng nhất của thời đại, những thành tựu mới nhất của khoa học công nghệ, phải góp phần giáo dục lòng yêu nước, ý thức tự cường dân tộc, hình thành nhân  cách mới của người lao động.
Phải tích cực đổi mới phương pháp dạy và học. Phương pháp dạy phải kích thích được tính sáng tạo, sự hăng say tìm tòi nghiên cứu của người học. Phương pháp học phải độc lập tự chủ, biết vận dụng kiến thức đã học vào giải thích và giải quyết những vấn đề thực tiễn cuộc sống đang đặt ra.
Thứ năm: Trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa, nghệ thuật.
Đẩy mạnh cuộc đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng, phê phán những tư tưởng phản động đang tìm cách phủ nhận con đường xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. “Đẩy mạnh tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận, tiếp tục làm sáng tỏ hơn lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta”(1) “Nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác tuyên truyền, giáo dục lý luận chính trị, tạo nên sự thống nhất cao hơn nữa trong Đảng, sự đồng thuận trong nhân dân” (2) đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, tư tưởng cơ hội, thực dụng, suy thoái về đạo đức, lối sống.
Trước yêu cầu mới của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đòi hỏi các nhà văn, nhà thơ, các nhạc sĩ, các nghệ sĩ phải nâng cao trách nhiệm của mình trong sáng tác, biểu diễn.
Cần tăng cường hơn nữa công tác quản lý của Nhà nước trong hoạt động sáng tác, biểu diễn, góp phần xây dựng lối sống lành mạnh, nâng cao những giá trị nhân văn, phát huy những giá trị tốt đẹp trong con người Việt Nam.





1    C. Mác và Ph. Angghen : Toàn Tập. NXB. Chính Trị Quốc Gia, HN. 1995, T.4, Trang 399.
1     Đảng Cộng sản VN : Văn kiện hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương (khóa VIII). Nxb, Chính Trị Quốc Gia, Hà Nội, 1997, Trang 56.
1     Đảng Cộng sản Việt Nam : Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy. BCH TW khóa VII, NXB. Chính Trị Quốc Gia, H.1994, Tr.98.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia Hà Nội, 2006, tr. 118.
1     Hồ Chí Minh : Toàn tập, NXB. Chính trị Quốc gia, HN 1995, T.3, Tr.1
1     Xem V.I. Lênin : toàn tập. NXB Tiến Bộ Matxcơva, 1976, T.33, Trang 23.
1     Đảng CSVN : Văn kiện Đại hộ đại biểu toàn quốc lần thứ IX
      NXB, Chính trị Quốc gia, 2001, Tr.84.
1     Đảng Cộng sản Việt Nam : Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, NXB. Chính Trị Quốc Gia, HN. 1996, Tr.72.
[1]C.Mác và Ph.Ang ghen toàn tập. NXB Chính trị Quốc gia, H.1995, T3, Tr. 11
1     Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Hội nghị lần thứ năm BCH TW khoá IX, NXB Chính trị Quốc gia, H. 2003, Tr 66-67.
2     Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Hội nghị lần thứ năm BCH TW khoá IX, NXB Chính trị Quốc gia, H. 2003, Tr 66-67.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét